思帝鄉
炎天
樹上來杜鵑
石榴火紅三夏
共鳴蟬
氣爽天高草綠
雲橫馬不前
望帝春心安在
使人煩
TƯ ĐẾ HƯƠNG
Viêm thiên
Thụ thượng lai đỗ
quyên
Thạch lựu hoả hồng
tam hạ
Cộng minh thiền
Khí sảng thiên cao
thảo lục
Vân hoành mã bất
tiền
Vọng Đế xuân tâm
an tại
Sử nhân phiền
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 20/5/2023
Viêm
thiên 炎天: Vốn chỉ phương nam, mượn chỉ
mùa hạ, nhân vì khí trời nóng bức.
Tam
hạ 三夏: tức ba tháng mùa hạ.
Vân
hoành mã bất tiền 雲橫馬不前: Mượn ý từ hai câu trong Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左迁至蓝关示侄孙湘 của
Hàn Dũ 韓愈 đời Đường:
Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại
Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền
云横秦岭家何在
雪拥蓝关马不前
(Mây giăng nơi Tần Lĩnh, không
biết nhà ta ở phương nào
Tuyết rơi dày cả Lam Quan, ngựa
cũng không chịu tiến lên)
Vọng Đế xuân tâm 望帝春心:
Lí Thương Ẩn 李商隐 thời Đường có bài “Cẩm sắt” 锦瑟 có câu:
Vọng Đế xuân tâm thác đỗ quyên
望帝春心托杜鹃
(Lòng xuân của Vọng Đế gởi vào
tiếng kêu của chim đỗ quyên)
Trong Hoa Dương quốc chí – Thục chí 華陽國志
- 蜀志 có truyền thuyết nói về chim Đỗ
quyên.
Thời Chiến Quốc, Đỗ Vũ 杜宇 nước Thục xưng đế, lấy hiệu là Vọng
Đế 望帝…..
Viên tướng của Vọng Đế là Khai Minh 開明có công trong việc trị thuỷ, Đế bèn giao chính sự, bắt chước
theo Nghiêu Thuấn thiện nhượng đế vị cho Khai Minh, Đế ẩn cư tại Tây Sơn 西山, hoá thành chim đỗ quyên, cứ đến
cuối xuân đầu hạ, chim đỗ quyên kêu lên, tiếng kêu nghe buồn. Tương truyền ấy
là vì nhớ nước mà kêu.
Trong Bản thảo cương mục 本草綱目của Lí Thời Trân 李時珍 đời Minh viện dẫn rằng:
Nhân
ngôn thử điểu, đề chí huyết xuất nãi chỉ
人言此鳥,
啼至血出乃止
(Người ta nói loài chim này, kêu cho đến khi ra máu mới dừng)