蘇幕遮
雁天邊
魚海底
日日音耗
萬里尋無計
夏去秋來霜露閉
晝夜躊躇
眼看光陰逝
菊花秋
西陸月
憶惜前年
舊處曾歡悅
蟋蟀蟲聲長切切
今夜星稀
推夢勞蝴蝶
TÔ MẠC GIÀ
Nhạn thiên biên
Ngư hải để
Nhật nhật âm hao
Vạn lí tầm vô kế
Hạ khứ thu lai
sương lộ bế
Trú dạ trù trừ
Nhãn khán quang âm
thệ
Cúc hoa thu
Tây lục nguyệt
Ức tích tiền niên
Cựu xứ tằng hoan
duyệt
Tất suất trùng
thanh trường thiết thiết
Kim dạ tinh hi
Thôi mộng lao hồ điệp
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 22/5/2023
Hai
câu đầu mượn điển “Nhạn tín ngư thư” 雁信魚書.
Nhạn tín 雁信: Theo Hán thư – Tô Vũ truyện 汉书 - 苏武传: Thời Hán Vũ Đế, Tô Vũ đi sứ Hung nô bị giữ lại. Hung nô nhiều lần uy hiếp dụ dỗ muốn ông đầu hàng nhưng ông không bằng lòng, bị đưa đến Bắc Hải 北海chăn dê. Trải qua 19 năm gian khổ, Tô Vũ vẫn bất khuất. Thời Hán Chiêu Đế 汉昭帝, nhà Hán và Hung nô nghị hoà, triều đình đòi trả Tô Vũ về, nhưng Hung nô nói dối là Tô Vũ đã chết. Sau sứ giả triều Hán lại đến Hung nô, Thường Huệ 常惠là tuỳ viên cùng đi sứ Hung nô với Tô Vũ đang đêm lén gặp Hán sứ trình bày rõ sự việc, bảo Hán sứ nói với Thiền vu rằng:
Thiên tử có bắn được con chim nhạn trong vườn Thượng Lâm 上林, nơi chân chim có buộc một phong thư viết trên tấm lụa, cho biết cả nhóm Tô Vũ hiện đang ở nơi đầm hoang.
Hán sứ cả mừng, làm theo lời Thường Huệ, trách Thiền vu. Thiền vu nhìn tả hữu thất kinh, tạ lỗi với Hán sứ, nói rằng nhóm người Tô Vũ hãy còn sống. Nhân đó Tô Vũ được trả về.
Về sau, người ta thường dùng “nhạn tín” 雁信, “nhạn thư” 雁书, “nhạn bạch” 雁帛 để chỉ thư tín.
Ngư thư魚書: Trong Nhạc phủ thi tập – Tương hoà ca từ thập tam - Ấm mã trường thành quật hành chi nhất 樂府詩集 - 相和歌辭十三 - 飲馬長城窟行之一 có chép:
Khách tùng viễn phương lai
Dị ngã song lý ngư
Hô nhi phanh lý ngư
Trung hữu xích tố thư
客從遠方來
遺我雙鯉魚
呼兒烹鯉魚
中有尺素書
(Khách từ phương xa đến
Tặng cho ta hai con cá chép
Gọi trẻ đem cá mổ
Thấy trong bụng cá có phong thư)
Về sau từ “ngư thư” hoặc “tin cá” dùng để chỉ tin tức.
Có thuyết cho rằng: “song lí ngư” 雙鯉魚là chỉ thư tín. Người xưa khi gởi thư thường cất thư vào trong chiếc hộp được làm bằng hai mảnh gỗ có hình con cá ghép lại, gọi là “song lí ngư”.
Trù trừ 躊躇: Suy nghĩ, suy tư.
Tây lục 西陸: chỉ mùa thu. Trong Tuỳ thư - Thiên văn chí 隋書 - 天文志 có chép:
Nhật
tùng hoàng đạo đông hành, nhất nhật nhất dạ hành nhất độ, tam bách lục thập ngũ
nhật hữu cơ nhi chu thiên, (Nhật) hành đông lục vị chi xuân, hành nam lục vị
chi hạ, hành tây lục vị chi thu, hành bắc lục vị chi đông.
日從黃道東行,
一日一夜行一度, 三百六十五日有奇而周天. (日)
行東陸謂之春, 行南陸謂之夏, 行西陸謂之秋,
行北陸謂之冬.
(Mặt trời theo đường hoàng đạo đi về phía đông, mật ngày một đêm đi được một vòng, ba trăm sáu mươi lăm ngày có lẽ thì giáp vòng trái đất. (Mặt trời) đi đến đông lục gọi là xuân, đi đến nam lục gọi là hạ, đi đến tây lục gọi là thu, đi đến bắc lục gọi là đông.)
Thôi mộng lao hồ điệp 推夢勞蝴蝶: Điển xuất từ Trang Tử - Tề vật luận 庄子 - 齐物论: Trang Chu thời Chiến Quốc nằm mộng thấy mình hoá thành bướm, khi tỉnh dậy thấy mình vẫn là Trang Chu. Không biết Trang Chu mộng hoá thành bướm, hay bướm mộng hoá thành Trang Chu?
Ở đây chỉ giấc ngủ.