Dịch thuật: Vì sao trong lịch sử danh khí của Bá Di Thúc Tề rất lớn (kì 3 - hết)

 

VÌ SAO TRONG LỊCH SỬ

DANH KHÍ CỦA BÁ DI THÚC TỀ RẤT LỚN

(kì 3 – hết)

3- Nghĩa bất thực Chu túc 义不食周粟 (vì nghĩa mà không ăn thóc nhà Chu)

          Câu chuyện thứ ba trong tiểu truyện nói rằng, đợi đến khi Chu Vũ Vương đánh bại Thương Trụ Vương, thiên hạ đều quy phụ triều Chu, riêng Bá Di, Thúc Tề lúc bấy giờ lại cảm thấy sỉ nhục làm thần dân của triều Chu. Để kiên thủ việc “nghĩa”, đã quyết định không ăn lương thực triều Chu, mà ẩn cư ở núi Thú Dương, hái ra vi để ăn. “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ” 普天之下, 莫非王土(Dưới gầm trời này, không nơi nào là không phải đất đai của thiên tử). Không ăn lương thực triều Chu, chỉ ăn rau vi ở núi Thú Dương, kết quả cuối cùng chỉ có thể là: hai anh em Bá Di và Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương.

          Đối với câu chuyện Bá Di Thúc Tề “nghĩa bất thực Chu túc”, trong Luận ngữ - Quý Thị 论语 - 季氏 có một chương từng nhắc đến:

          Tề Cảnh Công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xưng yên. Bá Di Thúc Tề ngạ vu Thú Dương chi hạ, dân đáo vu kim xưng chi. Kì tư chi vị dư?

          齐景公有马千驷, 死之日, 民无德而称焉. 伯夷叔齐饿于首阳之下, 民到于今称之. 其斯之谓与?

          (Tề Cảnh Công có cả ngàn con ngựa, lúc mất, bách tính cho rằng ông ta không có đức hạnh gì đáng để xưng tụng. Bá Di và Thúc Tề chết đói trên núi Thú Dương, đến nay bách tính hãy còn xưng tụng. Đó là vì sao?)

          Từ những ghi chép ở thiên Quý Thị 季氏 trong Luận ngữ 论语, đủ để thấy đệ tử của Khổng Tử tôn sùng Bá Di, Thúc Tề. Nhìn từ toàn bộ bộ Luận ngữ, có bồn chỗ nhắc đến Bá Di, Thúc Tề, bồn chỗ đó đều đánh giá cao độ, tôn sùng tuyệt đối, cũng chính là nhờ vào sức mạnh của bộ Luận ngữ mà Bá Di Thúc Tề đã bước lên thánh đàn.

          Trong Sử kí – Bá Di liệt truyện 史记 - 伯夷列传, đoạn thứ hai, đã thấy xuất hiện lời bàn của Thái Sử Công 太史公, chứ không phải như theo lệ là xuất hiện ở cuối đoạn văn. Nội dung cụ thể viết rằng.

          Thái Sử Công viết: Dư đăng Ki sơn, kì thượng cái hữu Hứa Do trủng vân. Khổng Tử tự liệt cổ chi nhân thánh hiền nhân, như Ngô Thái Bá, Bá Di chi luân tường hĩ. Dư dĩ sở văn, Do, Quang nghĩa chí cao, kì văn từ bất thiểu khái kiến, hà tai?

          太史公曰余登箕山其上盖有许由冢云孔子序列古之仁圣贤人如吴太伯伯夷之伦详矣余以所闻由光义至高其文辞不少概见何哉

          (Thái Sử Công nói rằng: Ta từng lên Ki sơn, trên núi lại có mộ của Hứa Do. Khổng Tử từng xếp thứ bậc những bậc thánh minh hiền đức của thời cổ, như Ngô Thái Bá, Bá Di, ghi chép rất là tường tận. Nhưng điều mà ta nghe được về Hứa Do, Vụ Quang, danh khí của họ vô cùng cao, nhưng những ghi chép liên quan tới họ trong trong kinh thư thì lại rất là ít, vì sao vậy?)

          Hứa Do 许由là hiền sĩ về sự việc Nghiêu Thuấn 尧舜. Đế Nghiêu muốn nhường ngôi vị cho Hứa Do, Hứa Do không chịu nhận, bỏ trốn ẩn cư. Vụ Quang 务光 là ẩn sĩ thời Hạ. Vào thời đại Tư Mã Thiên 司马迁sinh sống, danh khí của Hứa Do, Vụ Quang trong dân gian rất lớn, nhưng trong văn hiến kinh thư, những ghi chép về họ tìm không thấy.

          Đoạn cuối trong Sử kí – Bá Di liệt truyện 史记 - 伯夷列传, Tư Mã Thiên 司马迁 đã phát xuất cảm khái:

          Bá Di, Thúc Tề tuy hiền, đắc Phu Tử nhi danh ích chương; Nhan Uyên tuy đốc học, phụ kí vĩ nhi hạnh ích hiển. Nham huyệt chi sĩ, xu xả hữu thời, nhược thử loại danh yên diệt nhi bất xưng, bi phù. Lư hạng chi nhân dục chỉ hành lập danh giả, phi phụ thanh vân chi sĩ, ô năng thi vu hậu thế tai!

          伯夷叔齐虽贤, 得夫子而名益彰; 颜渊虽笃学, 附骥尾而行益显. 岩穴之士, 趋舍有时, 若此类名湮灭而不称, 悲夫. 闾巷之人欲砥行立名者, 非附青云之士, 恶能施于后世哉!

          (Bá Di Thúc Tề tuy hiền minh, được Phu tử ngợi khen mà danh tiếng càng hiển trứ; Nhan Uyên tuy dốc lòng vào việc học, nhân được bám vào đuôi ngựa kí (1) mà đức hạnh càng sáng. Nhưng kẻ sĩ ẩn cư nơi hang núi, họ xuất thế hoặc ở ẩn đều có thời cơ nhất định, nhưng những người đó nếu tên tuổi bị mai một không được tán dương, há chẳng phải là đau buồn sao? Những người bình thường ở xóm làng muốn rèn đức hạnh, lập thanh danh mà không dựa vào những người hiển đạt có địa vị có danh vọng, thì làm sao có thể lưu danh hậu thế?)

                                                                            (hết)

Chú của người dịch

1- Bám vào đuôi ngựa kí: “Kí” là một giống ngựa tốt, một ngày có thể chạy được cả ngàn dặm, được ví cho người có tài năng.

          Bám vào đuôi ngựa kí ý nói con ruồi bám vào đuôi ngựa kí mà có thể đi xa ngàn dặm. Về sau dùng “phụ kí vĩ” 附骥尾 (bám vào đuôi ngựa kí) để ví dựa vào bậc tiền bối hoặc người nổi tiếng mà được thành danh.

                                                                    Huỳnh Chương Hưng

                                                                    Quy Nhơn 26/02/2023

Nguồn

https://new.qq.com/rain/a/20191011A0QYWZ00

 

Previous Post Next Post