CÕI NGƯỜI NƯỚC NHƯỢC NGUỒN ĐÀO (259)
Nước Nhược nguồn Đào: Tức “Nhược thuỷ Đào nguyên” 弱水桃源.
Nhược thuỷ 弱水: Tên sông thời cổ. “Nhược” 弱là
yếu, người xưa cho rằng nhân vì sông không chở nổi thuyền nên có tên là “Nhược
thuỷ”.
Nguyên ở
thiên Vũ cống 禹贡trong Thượng thư 尚书 có từ
“Nhược thuỷ”:
Đạo Nhược thuỷ, chí vu Hợp Lê, dư ba nhập
vu lưu sa.
导弱水, 至于合黎, 余波入于流沙
(Khơi sông Nhược đến núi Hợp Lê, nơi hạ du chảy vào sa
mạc)
Và
trong Sơn hải kinh 山海经có ghi:
Côn Luân chi bắc hữu thuỷ, kì lực bất năng
thăng giới, cố danh Nhược thuỷ.
昆仑之北有水, 其力不能胜芥, 故名弱水.
(Phía bắc
Côn Luân có sông, sức của nước không chở nổi cộng cỏ, cho nên có tên là Nhược
thuỷ).
“Giới” 芥ở đây là cọng cỏ, chỉ con thuyền nhỏ, thuyền nhỏ như cộng
cỏ mà không thể chở nổi, nên có tên như thế. Về sau phiếm chỉ nơi xa xôi hiểm
ác, hoặc nơi sông nước mênh mông.
Trong thần
thoại cổ đại Trung Quốc, “Nhược thuỷ” cũng chỉ nhưng nơi sông biển hiểm ác khó
vượt, như ở Hải nội thập châu kí – Phụng
Lân châu 海内十洲记 - 凤麟洲có câu:
Phụng Lân châu, tại tây hải chi trung ương,
địa phương nhất thiên ngũ bách lí, châu tứ diện hữu Nhược thuỷ nhiễu chi, hồng
mao bất phù, bất khả việt dã.
凤麟洲, 在西海之中央, 地方一千五百里, 洲四面有弱水绕之, 鸿毛不浮, 不可越也.
(Châu
Phụng Lân ở giữa tây hải, đất vuông một ngàn năm trăm dặm, bốn phía của châu có
sông Nhược bao quanh, cộng lông chim hồng cũng không nổi được, không thể vượt
qua)
https://www.baike.com/wikiid/8989950198749866529?prd=attribute&view_id=455zztmv45m000
Trong quá trình truyền bá và
phát triển, ý nghĩa “Nhược thuỷ” đã có sự cải biến, thường đi chung với Bồng
Lai hoặc Đào nguyên để chỉ nơi tiên ở. Thành ngữ “Bồng Lai Nhược thuỷ” 蓬萊弱水 (non
Bồng nước Nhược). Trong văn học Việt
Bồn bề bát ngát mệnh mông
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu.
Hoặc
trong Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm
Thái:
Thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy
đôi mươi năm làm một kiếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược, đỉnh gì không đoái đến cõi phù sinh.
Và
trong bài phú của Nguyến Bá Lân:
Nguồn
Đào kia cũng nguồn Đào
Nước
Nhược nọ cùng nước
Nhược
(Nguyễn
Thạch Giang: “Tiếng Việt trong thư tịch cổ” quyển 1, nhà xuất bản Khoa học xã hội,
2002)
Theo tư
liệu http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?5416,
hai câu trong bài Hương Sơn nhật trình
là:
Bầu trời man mác xa trông
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu
Và bài Văn tế Trương Quỳnh Như
của Phạm Thái, theo Thi viện là:
Thân là thân
hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm, làm một kiếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không
đoái đến cõi phù sinh!
Câu
này theo Ngân Triều biên khảo là:
Thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi làm một kiếp, mà ngơm ngớp chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không đoái đến
cõi phù sinh!
Câu “nỡ nào lấy đôi mươi làm một kiếp”, phần chữ Nôm là 𡝖芾𥙩對𨑮𢆥爫沒刦 có chữ “năm” 𢆥, tức “nỡ nào lấy đôi mươi năm làm một kiếp”.
Đào nguyên 桃源: Điển xuất từ bài Đào
hoa nguyên kí 桃花源記 của Đào Tiềm 陶潛
đời Tấn.
Khoảng niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng làm nghề đánh cá. Ngày nọ ông đi thuyền theo dòng nước, bỗng chợt thấy một rừng hoa đào nở rộ ở hai bên bờ. Cảm thấy lạ, ông muốn tìm đến tận cùng. Thấy có một cửa động, bên trong dường như có ánh sáng, ông bèn xuống thuyền đi bộ. Cửa động rất hẹp, chỉ vừa đủ một người vào, đi dược mấy chục bước đột nhiên không gian rất rộng, đất đai bằng phẳng, nhà cửa chỉnh tề, ruộng đồng tươi tốt. Người ở đây ăn mặc hoàn toàn khác với người đời. Có người cảm thấy lạ bèn mời về nhà bày rượu giết gà làm cơm tiếp đãi. Người trong thôn nghe nói liền kéo đến hỏi thăm. Họ nói tổ tiên của họ vì tránh loạn đời Tần mà đến nơi đây, sống cách tuyệt với thế giới bên ngoài, chẳng biết bên ngoài đã là triều đại nào rồi. Người đánh cá lưu lại mấy ngày, sau đó cáo từ. Ông tìm lại thuyền, thuận theo đường cũ mà quay về, đi qua nơi nào đều làm dấu ghi nhớ. Về đến quận thành, ông báo cáo với quan Thái thú. Quan Thái thú lập tức sai người cùng ông đi tìm những nơi đã làm dấu, nhưng cuối cùng bị lạc, tìm không thấy đường đến nguồn đào.
Cõi người nước
Nhược nguồn Đào
Liền mây ngàn
dãy bày sao trăm toà
(Nhị độ mai 259 - 260)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 22/02/2023