Dịch thuật: Mai hoa (Tống - Vương An Thạch)

 

梅花

墙角数枝梅

凌寒独自开

遥知不是雪

为有暗香来

                                                                    ( - 王安石)

MAI HOA

Tường giác sổ chi mai

Lăng hàn độc tự khai

Dao tri bất thị tuyết

Vị hữu ám hương lai

                                                               (Tống - Vương An Thạch)

HOA MAI

Mấy cây mai nơi góc tường

Vươn lên trong cái rét, riêng mình nở hoa

Nhìn xa xa thấy màu trắng của hoa tinh khiết biết không phải là tuyết

Bởi vì từng đợt từng đợt hương ngầm của hoa bay đến 

          “Mai hoa” 梅花là bài ngũ ngôn tuyệt cú do thi nhân Vương An Thạch 王安石thời Bắc Tống sáng tác. Hai câu đầu của bài thơ, tả mấy cây mai nơi góc tường không sợ cái rét, mạnh mẽ vươn lên, riêng mình nở hoa. Hai câu sau nói đến mùi hương ngầm của hoa. Tác giả nhân cách hoá hoa mai, kiên cường mạnh mẽ vươn lên trong cái rét, ví với phẩm cách cao quý, và mùi hương ngầm thấm vào lòng người, tượng trưng cho người tài hoa tràn đầy. Cũng chính là lấy sự kiên cường và phẩm cách cao khiết của hoa mai để ví với thi nhân, dù ở vào hoàn cảnh gian nan vẫn luôn giữ tiết tháo.

Bối cảnh sáng tác

          Niên hiệu Hi Ninh 熙宁nguyên niên đời Tống Thần Tông 宋神宗 (năm 1068), Vương An Thạch dâng Bản triều bách niên vô sự trát tử 本朝百年无事札子 , chủ trương lấy của người giàu để cứu giúp dân nghèo, làm cho nước giàu binh mạnh, tiến hành cải cách toàn diện, nhưng những người phản đối không ngừng nghị báng. Mùa xuân năm Hi Ninh thứ 7 (năm 1074), thiên hạ đại hạn, dân đói lưu li thất sở, Vương An Thạch bị bãi Tướng. Tháng 2 năm sau, Vương An Thạch lại được bái Tướng. Năm Hi Ninh thứ 9 (năm 1076) một lần nữa Vương An Thạch bị bãi Tướng, ông buồn rầu chán nản buông bỏ cải cách, lui về ẩn cư ở Chung sơn 钟山. Lúc này tác giả tâm thái cô độc, có chỗ tương đồng với hoa mai ở vào cảnh gian nan mà vẫn ngạo tuyết lăng hàn, nhân đó mà viết ra bài thơ này.

Vài nét về tác giả

         Vương An Thạch 王安石 (1021 – 1086), tự Giới Phủ 介甫, hiệu Bán Sơn 半山, Hán tộc, người Phủ Châu 抚州 (nay là Thượng Trì 上池 huyện Đông Hương 东乡thành phố Phủ Châu 抚州 Giang Tây 江西). Ông là tư tưởng gia, chính trị gia, văn học gia, cải cách gia nổi tiếng thời Bắc Tống. Cùng với Hàn Dũ 韩愈, Liễu Tông Nguyên 柳宗元 … được gọi chung là “Đường Tống bát đại gia” 唐宋八大家 (1). Năm Hi Ninh 熙宁thứ 2 (năm 1069), làm Tham tri chính sự 参知政事 từ năm Hi Ninh thứ 3 trở đi, ông hai lần nhậm chức Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự 同中书门下平章事, tiến hành tân pháp. Năm Hi Ninh thứ 9 sau khi bị bãi Tướng. ông ẩn cư, bị bệnh và qua đời ở Chung Sơn 钟山Giang Ninh 江宁(nay là thành phố Nam Kinh 南京Giang Tô 江苏), thuỵ hiệu là “Văn” , được gọi là Vương Văn Công 王文公. Chính trị biến pháp của ông đối với xã hội kinh tế hậu kì thời Bắc Tống có ảnh hưởng sâu rộng,

https://baike.baidu.com/item/%E6%A2%85%E8%8A%B1/2659664

Chú của người dịch

1- Đường Tống bát đại gia 唐宋八大家: Cũng gọi “Đường Tống tản văn bát đại gia” 唐宋散文八大家, là hợp xưng tám vị tản văn gia đời Đường và đời Tống, gồm:

- Đời Đường: Hàn Dũ 韩愈, Liễu Tông Nguyên 柳宗元

- Đời Tống: Âu Dương Tu 欧阳修, Tô Tuân 苏洵, Tô Thức 苏轼, Tô Triệt 苏辙, Vương An Thạch 王安石, Tăng Củng 曾巩.

                                                                         Huỳnh Chương Hưng

                                                                         Quy Nhơn 29/01/2023

Nguồn

https://baike.baidu.com/item/%E6%A2%85%E8%8A%B1/2659664

Previous Post Next Post