NHÂN CẦM CÂU VONG
人琴俱亡
Người và đàn đều mất
Giải thích: Ví với lòng thương tiếc đối với
tri kỉ hoặc bạn bè thân hữu qua đời.
Xuất xứ: Nam triều . Tống , Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆: Thế thuyết tân ngữ - Thương thệ 世说新语 - 伤逝.
Vương
Hiến Chi 王献之là
con của đại thư pháp gia Vương Hi Chi 王羲之thời Đông Tấn, ông giỏi cả thư và hoạ, đặc biệt sở trường
thư pháp là hành thư, thảo thư đều vô cùng xuất sắc. Người đời sau gọi hai cha
con Vương Hi Chi và Vương Hiến Chi là “Nhị Vương” 二王.
Anh
của Vương Hiến Chi là Vương Huy Chi 王徽之, giữa hai anh em tình cảm vô cùng sâu đậm. Về sau, cả hai
anh em đều mang trọng bệnh, Vương Hiến Chi mất trước. Người nhà sợ Vương Huy
Chi đau thương quá mức nên không báo tin cho biết. Vương Huy Chi đã lâu không
có tin tức gì của người em, trong lòng vô cùng lo lắng. Ngày nọ, ông hỏi người
nhà rằng:
-
Bệnh tình của Tử Kính 子敬 (tên tự của Vương
Hiến Chi) như thế nào rồi? Sao lâu quá không có tin tức gì? Hay là đã xảy ra sự
việc?
Người
nhà nói không dám thổ lộ sự tình. Vương Huy Chi cuối cùng đã rõ, đau buồn nói rằng:
-
Xem ra Tử Kính đã mất rồi! Đúng không?
Người
nhà không dám giấu nữa, liền nói hết sự thực.Vương Huy Chi nghe qua cũng không
khóc, bước xuống giường bệnh, dặn nô bộc chuẩn bị ngựa xe để đi bôn tang.
Đến
nhà Vương Hiến Chi, Vương Huy Chi ngồi trên linh sàng. Ông biết Vương Hiến Chi
lúc sinh tiền rất thích đàn, liền nói với người nhà của Vương Hiến Chi rằng:
-
Đem cây đàn của Tử Kính ra đây.
Sau
khi đàn đem ra, Vương Huy Chi tại linh sàng một mặt đàn, một mặt nghĩ đến tình
huynh đệ. Ông càng nghĩ càng đau thương, đàn mấy lần nhưng đều không thành khúc
điệu. Thế là, Vương Huy Chi nâng cao đàn lên rồi quăng xuống đất, sau đó than rằng:
-
Tử Kính!, Tử Kính! Nay người và đàn đều mất.
Than xong, Vương Huy Chi đau thương đến độ ngất đi. Một tháng sau, ông cũng lìa xa thế gian.
Phụ
lục của người dịch
王子猷, 子敬俱病笃, 而子敬先亡. 子猷问左右: “何以都不闻消息? 此已丧矣!” 语时了不悲, 便索舆来奔丧, 都不哭 子敬素好琴, 便径入坐灵床上, 取子敬琴弹, 弦既不调, 掷地云: “子敬, 子敬, 人琴俱亡!” 因恸绝良久. 月余亦卒.
Phiên
âm
Vương Tử Du, Tử Kính câu bệnh đốc, nhi Tử
Kính tiên vong. Tử Du vấn tả hữu: “Hà dĩ đô bất văn tiêu tức? Thử dĩ táng hĩ!”
Ngữ thời liễu bất bi, tiện sách dư lai bôn tang, đô bất khốc. Tử Kính tố hiếu cầm,
tiện kính nhập linh sàng thượng, thủ Tử Kính cầm đàn, huyền kí bất điệu, trịch
địa vân: “Tử Kính, Tử Kinh, nhân cầm câu vong!” Nhân đỗng tuyệt lương cửu. Nguyệt
dư diệc tuất.
Dịch
nghĩa
Vương
Tử Du và Vương Tử Kính đều bệnh nặng, Tử Kính mất trước. Ngày nọ Tử Du hỏi người
hầu rằng: “Sao không thấy có tin tức gì của Tử Kính? Hay là đã mất rồi?”. Lúc
nói không hề có chút bi thương, sau đó sai chuẩn bị xe đi bôn tang, cũng không
hề khóc. Tử Kính lúc sinh tiền rất thích đàn, Tử Du bèn đi thẳng đến ngồi trên
linh toạ, lấy cây đàn của Tử Kính ra đàn, đàn thế nào cũng không thành khúc điệu,
liền quăng đàn xuống đất, nói rằng: “Tử Kính, Tử Kính, người và đàn đều mất rồi!”
Nói xong đau thương đến độ ngất đi. Mãi một lúc lâu mới tỉnh dậy. Hơn một tháng
sau, Tử Du cũng lìa đời.
(Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆: Thế thuyết tân ngữ 世说新语, Hà Lưu 河流dịch chú. Thẩm Dương . Liêu Hải xuất bản xã, 2017.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 31/12/2022
Nguyên tác Trung văn
NHÂN CẦM CÂU VONG
人琴俱亡
TRUNG QUỐC THÀNH NGỮ CỐ SỰ TỔNG TẬP
中国成语故事总集
(tập 1)
Chủ biên: Đường Kì 唐麒
Trường Xuân – Thời đại văn nghệ xuất bản xã, 2004