ĐI VỚI CHỮ “CỬU” 九 KHÔNG PHẢI VỚI CHỮ “HOÀN” 丸
Bàn về chữ “nhiễm” 染
Chữ 染 (nhiễm) tức nhuộm là chữ thường dùng, nhưng người viết
sai thì không ít. Ngay cả trên bảng hiệu “染坊”
(nhiễm phường) của một số tiệm cũng có viết sai. Sai ở chữ 染 (nhiễm) cứ cho thêm một chấm, cho thêm một chấm thì
chữ 九 (cửu) trong chữ 染
(nhiễm) biến thành chữ 丸 (hoàn). Cho nên có
người nói đùa, “nhiễm phường lí thị bất mại hoàn dược đích” 染坊里是不卖丸药的 (trong tiệm nhuộm không bán thuốc viên), chính là nói
đến chữ 染 (nhiễm) đi với chữ 九
(cửu) mà không phải với chữ 丸 (hoàn). Tìm hiểu
nguyên nhân, có thể là do không hiểu được quá trình tạo chữ của chữ 染 (nhiễm). Về chữ 染
(nhiễm), có thuyết cho là loại chữ hình thanh, 氵 (thuỷ) bên cạnh
là ý phù, 杂 (tạp)
là thanh phù, nhưng trong Thuyết văn giải
tự 说文解字 cho rằng đó là
chữ hội ý. Gọi là hội ý, chính là từ kết cấu tự hình của cả hai thành phần trở
lên, người ta xem qua mà đoán được ý của nó. 染
(nhiễm) quả thực là chữ hội ý, nó do 3 bộ phận tổ thành là氵(thuỷ), 九 (cửu), 木 (mộc). Có 氵(thuỷ) là nhân vì nhuộm
thì phải cần nước, không có nước thì không thể nhuộm; 九
(cửu) là biểu thị nhiều lần. Nhân vì quá trình nhuộm không phải chỉ một lần là
hoàn thành, phải nhuộm đi nhuộm lại mấy lần mới được. Như dùng cỏ thiến 茜làm thuốc nhuộm, ngâm lần đầu được sắc vàng cực nhạt,
ngâm lần thứ hai được sắc vàng nhạt, ngâm lần thứ ba được sắc đỏ nhạt, ngâm lần
thứ tư mới được sắc đỏ (1). Có người nói, 九 (cửu) trong 染 (nhiễm)
là chỉ quá trình nhuộm, trước tiên nhuộm mấy lần, sau đó lại nhuộm đi nhuộm lại,
rốt cuộc mấy lần cũng không phải là cách suy nghĩa khi tạo chữ. 染 (nhiễm) tại sao lại có 木
(mộc)? Thời cổ không có thuộc nhuộm hoá học như hiện nay, thời cổ khi nhuộm đa
phần dựa vào cây cỏ tự nhiên lấy làm thuốc nhuộm. Trong Thuyết văn 说文 có nói:
“Nhiễm” tự trung đích “mộc”, chi thiến
chi thuộc.
“染” 字中的木栀茜之属
(“Mộc” trong chữ “nhiễm” ấy là chỉ những loại thuộc
cây chi cỏ thiến)
Sự thực
là như thế, quả của cây chi 栀 có thể dùng làm thuốc
nhuộm, hoa của cỏ thiến 茜 cũng có thể dùng làm
thuốc nhuộm. Vào thời cổ, tại Lạc Dương 洛阳
có “Chi Thiến viên” 栀茜园là nơi chuyên trồng cây chi và cỏ thiến, nhưng thuốc
nhuộm có được e là không phải dành cho bách tính. Bách tính nhuộm quần áo, đa số
là sắc đen, có thể dùng vỏ trái cây lịch 栎để
nhuộm đen, có thể dùng lá cây ô cữu 乌臼để nhuộm đen. Trong Tề dân yếu thuật 齐民要术có nói, trái lịch
tức “tạo đấu” 皂斗, loại này vào những năm mùa màng kém có thể dùng làm
thức ăn, những năm mùa màng dư dả có thể cho heo ăn, vỏ “tạo đấu” sắc nước có
thể nhuộm đen. Lá cây ô cữu tương đối mỏng, có màu xanh nhạt, cũng có thể dùng
để nhuộm đen. Ngoài ra, “niết” 涅 (phèn có sắc đen) cũng có thể nhuộm đen, nhưng loại
này không phải thực vật. Còn như “hồng hoa” 红花nhuộm
đỏ, “bản lam căn” 板蓝根nhuộm màu trà lam, “tử thảo” 紫草nhuộm
tía, “lục thảo” 菉草nhuộm vàng, những điều này có thể thấy trong sách Thiên công khai vật天工开物. Lịch sử in
nhuộm của Trung Quốc tương đối sớm, sự phát triển của nó cùng với sự phát triển
của sản phẩm tơ lụa có liên quan. Cho nên trong Thuyết văn 说文 khi giải thích chữ 染 (nhiễm) có nói:
Dĩ tăng nhiễm sắc (3)
以缯染色
(Đem vải vóc tơ lụa nhuộm màu)
“Tăng” 缯 là
các loại vải vóc nói chung, “dĩ tăng nhiễm sắc” chính là đem vải vóc tơ lụa nhuộm
màu. Sản phẩm tơ lụa Trung Quốc xuất hiện rất sớm, nhuộm màu có thể nói tương ứng
với sự phát triển đó. Trong Chu lễ 周礼có nói thời cổ
có “nhiễm nhân” 染人, là vị quan chuyên nhuộm vải vóc tơ lụa. Trong Chu lễ - Địa quan – Tư đồ 周礼 - 地官 - 司徒còn nói đến “mao
茅, sưu 蒐, thác lô 橐芦, thỉ thủ 豕首, tử kinh” 紫荆 (4) đều có thể nhuộm màu, cũng nói rõ Trung Quốc từ rất sớm
đã tích luỹ được kinh nghiệm in nhuộm quý báu.
染 (nhiễm)
vốn là từ trung tính, trong Mặc Tử - Sở
nhiễm 墨子 - 所染 có
câu có thể chứng minh:
Nhiễm vu thương tắc thương, nhiễm vu
hoàng tắc hoàng
染于苍则苍, 染于黄则黄
(Tơ trắng nhuộm trong sắc lam sẽ
có màu lam, nhuộm trong sắc vàng sẽ có màu vàng)
Nhưng về sau từ “nhiễm” đa phần có nghĩa chê bai, mang ý nghĩa “dơ bẩn”. Như các từ “triêm nhiễm” 沾染, “truyền nhiễm” 传染, “cảm nhiễm” 感染, “tập nhiễm” 习染 v.v… đều có nghĩa không tốt, không hay. Trong Phật giáo cho rằng mỗi cá nhân từ “nhiễm” 染 đến “tịnh” 净 là một quá trình giác ngộ nhân sinh, chữ “nhiễm”đó cũng là biếm nghĩa.
Chú của
nguyên tác
1- Hoàng Năng Phức 黄能馥:
Ấn nhiễm sử thoại 印染史话, trang 14.
2- Theo Sử kí –
Hoá thực liệt truyện 史记 - 货殖列传 có câu:
Chi thiến thiên thạch, dữ Thiên hộ hầu đẳng.
栀茜千石, 与千户侯等
(Có ngàn thạch chi thiến, cũng ngang bằng với Thiên hộ
hầu)
Ý nói trồng cây chi cỏ thiến có được lợi nhiều.
3- Thuyết văn giải
tự: 说文解字: Thập nhất thiên Thuỷ bộ 十一篇水部. Trung Hoa thư cục
ảnh ấn.
4- Lâm Doãn 林尹: Chu lễ kim chú kim dịch – Địa quan Tư đồ 周礼今注今译 - 地官司徒: “Chưởng nhiễm thảo” 掌染草Trịnh chú 郑注. Thư mục văn hiến xuất bản xã.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 29/12/2022
Nguyên tác Trung văn
TÙNG “CỬU” BẤT TÙNG “HOÀN”
ĐÀM “NHIỄM”
从九不从丸
谈 “染”
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã,
1998