DỌC NGANG BỐN BỂ NĂM HỒ (599)
Bốn bể, năm hồ:
tức “tứ hải ngũ hồ” 四海五湖phiếm chỉ các nơi, không phải thực chỉ.
Bốn bể (tứ hải):
liên quan đến từ “tứ hải”, trong Nhĩ nhã
– Thích địa 尔雅 - 释地 có đoạn:
Cửu di, bát địch,
thất nhung, lục man, vị chi tứ hải.
九夷, 八狄, 七戎, 六蛮, 谓之四海.
(Cửu di, bát địch, thất nhung, lục man gọi là “tứ hải”)
Và trong Luận ngữ - Nhan Uyên 论语 - 颜渊 có câu:
Tứ hải chi nội,
giai huynh đệ dã.
四海之内, 皆兄弟也
(Trong bốn biển đều là anh em)
Có thuyết cho “tứ hải” là: Bột hải 渤海,
Hoàng hải 黄海, Đông hải 东海và Nam hải 南海.
Năm hồ (ngũ hồ 五湖): liên quan
đến từ “ngũ hồ”, trong Chu lễ - Hạ quan –
Chức phương thị 周礼 - 夏官 - 职方氏có đoạn:
Đông nam viết Dương
Châu, kì sơn trấn viết Cối Kê, kì trạch tẩu viết Cụ khu, kì xuyên tam giang, kì
tẩm ngũ hồ.
东南曰扬州, 其山镇曰会稽, 其泽薮曰具区, 其川三江, 其浸五湖.
(Đông nam là Dương Châu. Sơn trấn của nó là Cối Kê, đầm lớn
là Cụ khu, sông có tam giang, chằm lớn có thể tưới tiêu có ngũ hồ)
Với “ngũ hồ” họ Trịnh 郑
chú rằng:
Ngũ hồ, phi xác chỉ mỗ
ngũ hồ, nhi thị phiếm chỉ Thái hồ lưu vực đích hồ bạc.)
五湖, 非确指某五湖, 而是泛指太湖流域的湖泊.
(Ngũ hồ, không phải xác chỉ hồ nào đó, mà là phiếm chỉ những
đầm hồ ở lưu vực Thái hồ).
(“Chu lễ dịch chú” 周礼译注: Dương Thiên Vũ soạn 杨天宇. Thượng Hải cổ tịch
xuất bản xã, 2004)
Có thuyết cho “ngũ hồ” là: Động Đình hồ 洞庭湖, Bà Dương hồ 鄱阳湖,
Thái hồ 太湖, Sào hồ 巢湖, Hồng Trạch hồ 洪泽湖.
Ở bài Tuyệt cú 绝句của Lữ Nham 吕岩 đời Đường có câu:
Đẩu lạp vi
phàm phiến tác chu
Ngũ hồ tứ hải
nhậm ngao du
斗笠为帆扇作舟
五湖四海任遨游
(Lấy nón làm buồm, lấy quạt làm thuyền
Mặc tình ngao du năm hồ bốn biển)
Người ta mượn “ngũ hồ tứ hải” để chỉ các nơi trong cả nước Trung Quốc. Nghĩa rộng hơn, phạm vi của ngũ hồ tứ hải không chỉ giới hạn ở Trung Quốc, mà là chỉ toàn thiên hạ.
Dọc ngang bốn bể năm hồ
Khắp trong ba cõi, chín châu mặc dầu
(Bích Câu kì ngộ: 599 - 600)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 13/10/2022