HOÈ VĂN HOÁ
Hoa hoè
thường thấy có 3 loại:
- Quốc hoè hoa 国槐花 sắc
vàng nhạt, cuối mùa hạ nở hoa, có thể dùng làm thuốc nhưng không thể dùng làm
thực phẩm.
- Thích
hoè hoa 刺槐花 sắc
trắng (cũng gọi là Dương hoè hoa 洋槐花), đầu mùa hạ nở
hoa, hoa thơm vị ngọt, có thể dùng làm thực phẩm, nhưng không thể dùng làm thuốc.
- Hoè
hoa 槐花 sắc
đỏ (biến chủng) chỉ dùng để thưởng thức, không thể dùng làm thực phẩm.
Có thể
thấy, hoa hoè mà chúng ta ăn là loại Dương hoè hoa洋槐花
sắc trắng.
Tại
Trung Quốc, cây hoè có quan hệ với đời sống của nhân dân. Loại Thích hoè 剌槐 (Robinia pseudoacacia L.) nguyên sản tại
Bắc mĩ, sau khi được đưa về Trung Quốc vào cuối thế kỉ 18, Thích hoè hoa 刺槐花trở thành một món ngon dùng đỡ đói trong lúc giáp hạt
của bách tính, đến nay vẫn là nguồn mật trọng yếu, loại thực vật trồng làm cảnh
và dùng làm thực phẩm. Quốc hoè 国槐
(Sophora japonica Linn.) từ thời Tiên Tần đến nay được xem là một loại nguyên tố văn hoá dung nhập trong văn hoá truyền thống Trung Quốc, đồng thời theo sự phát triển của nền văn minh Trung Hoa đã được truyền thừa và kéo dài. Ngày nay, chúng ta cùng xem thử văn hoá lịch sử của Quốc hoè.
Tính thị cổ
xưa
Bắt nguồn
từ tính (họ) Cơ 姬 thời
thượng cổ. Thời Hoàng Đế 黄帝, hoè tồn tại đã được
dùng làm tính thị, đọc là huí, xuất
phát từ bề tôi của Hoàng Đế là Ngôi Hoè Thị 嵬槐氏,
nói tắt là Hoè Thị 槐氏, đời đời tương truyền. Chi nhánh Hoè Thị này hiện nay
được phân bố đều tại Hà Bắc 河北, Sơn Đông 山东, Bắc Kinh 北京, Vân
Cây thần tại
đàn Xã
Trung
Quốc từ xưa đến nay, các dân tộc đều có tập tục đắp đàn Xã 社 để
kính thần tế tổ. Bốn bên của đàn tế thường trồng một loại hoặc mấy loại cây, gọi
tôn kính là “Thần thụ” 神树. Trong một năm, vào
mùa mà mỗi tháng đàn Xã tế tự có trồng các loại cây khác nhau. Như trong Hoài
Chính nguyệt quan Tư không, kì thụ dương
..... Cửu nguyệt quan Hầu, kì thụ hoè.
正月官司空, 其树杨 ..... 九月官侯, 其树槐
(Tháng
Giêng, quan đại biểu là Tư không, cây đại biểu là cây dương. ..... Tháng Chín,
quan đại biểu là Hầu quan, cây đại biểu là cây hoè)
Hoè là
loại cây theo mùa tháng 9. Hoè được tôn là “Thần thụ”, sản sinh từ từ nhiều thần
thoại truyền thuyết lưu truyền đến nay. Trong Thiên tiên phối 天仙配, Đổng Vĩnh 董永 và Thất tiên nữ 七仙女,
nhân được lão hoè thụ mở miệng làm mối, giai ngẫu thiên thành. “
Tượng trưng
cho cát tường
Môn tiền nhất hoè thụ, bất thị tiến bảo
tựu thị chiêu tiền
门前一槐树, 不是进宝就是招前
(Trước cửa có cây hoè, nếu vật báu không vào thì cũng
rước tiền vào)
Trong
câu ngạn ngữ, người ta xem cây hoè là loại cây cát tường chiêu tài tiến bảo.
Hoè được xem là tượng trưng cho cát tường, bắt nguồn từ những ghi chép trong Thái Công kim quỹ 太公金匮: Khương Thái
Công 姜太公 triều
Biệt xưng của
quan vị
Trong xã hội phong kiến cổ đại, hoè tượng trưng cho vị trí tể phụ của tam công (Thái sư 太师, Thái phó 太傅, Thái bảo 太保). Triều Chu có chế độ “tam hoè cửu cức” 三槐九棘, tức công khanh đại phu theo vị thứ phân ngồi dưới cây hoè cây cức, triều kiến thiên tử. Tả cửu cức, là vị trí của công khanh đại phu; hữu cửu cức là vị trí của công, hầu, bá, tử, nam. Đối diện với tam hoè là vị trí của tam công. Nhân đó, “hoè cức” 槐棘 trở thành đại từ chỉ tam công cửu khanh. Hoè cũng từ loại cây thường thấy dần trở thành phù hiệu của cung đình, biệt xưng của quan vị. Đồng thời, xuất hiện ngụ ý chính trị của hoè, như “hoè đỉnh” 槐鼎 (vị trí tam công, cũng phiếm chỉ đại thần chấp chính), “hoè vị” 槐位 (vị trí tam công), “hoè khanh” 槐卿 (tam công cửu khanh), “hoè thần” 槐宸 (cung điện của hoàng đế), “hoè dịch” 槐掖 (cung đình), “hoè vọng” 槐望 (công khanh có thanh vọng), “hoè thụ” 槐绶 (ấn thụ của tam công), “hoè nhạc” 槐岳 (cao quan cung đình), “hoè thiền” 槐蝉 (cao quan quý hiển), “hoè phủ” 槐府 quan thự hoặc trạch đế của tam công), “hoè đệ” 槐第 (trạch đệ của tam công).
Điềm báo thi
đậu
Hoè là biệt xưng quan vị tam công vào thời cổ nên rất được kẻ sĩ yêu thích, trong môi trường sống và học tập đương nhiên không thể thiếu cây hoè. Bên cạnh nhà Thái học 太学, nơi học trò tụ hội, là “chợ” buôn bán thư tịch, nhân đó hoè được xưng là “hoè thị” 槐市 (chợ hoè), cho đến việc hoè còn có thể chỉ học cung, học xã. Từ triều Đường trở về sau, khoa cử khảo thí là con đường cho kẻ sĩ giành lấy công danh, hoè cũng được diễn biến thành đại từ chỉ khoa cử, cử tử đi thi xưng là “đạp hoè” 踏槐, năm khảo thí xưng là “hoè thu” 槐秋, tháng khảo thí xưng là “hoè hoàng” 槐黄. “Hoè hoa hoàng, cử tử mang” 槐花黄, 举子忙 (hoa hoè trổ vàng, các cử tử bận rộn), chỉ tình cảnh bận rộn của các học trò chuẩn bị cho khoa cử khảo thí, mượn hoa hoè để cầu quan vận hanh thông. Hoè khiến cho tâm học trò có “hoè vị” 槐位, đồng thời kích thích nguyên động lực học tập của họ, để cầu thi đậu. Do đó hoè trở thành điềm báo thi đậu. ... (còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 27/9/2021
Nguồn
http://www.cas.cn/kx/kpwz/202005/t20200508_4744952.shtml