CƯỠNG LÂM
KÍNH, NGỌC TRỞ KHÔNG TRUỴ LĂNG HOA TIỀN (241)
強臨鏡玉筋空墜菱花前
Gượng soi kiếng, nước mắt tuôn rơi trước kiếng
Ngọc trở 玉筋 (viết đúng là 箸,
đọc đúng là “trứ” nhưng quen đọc là “trợ”). “Ngọc trợ” 玉箸là
đũa ngọc, ở đây mượn chỉ nước mắt, điển
xuất từ bài Độc bất kiến 独不见 của Lưu Hiếu Uy 刘孝威 thời Nam Bắc triều.
Phu tế kết anh trâm,
thiên mông Hán sủng thâm. Trung nhân dẫn ngoạ nội, phó xa du Thượng lâm. Thụ
nhiễm Lang Da thảo, thiền chú Vũ Uy câm. Phân gia di giáp đệ, lưu thiếp trú Hà
Âm. Độc tẩm uyên ương bị, tự lí phượng hoàng cầm. Thuỳ liên song ngọc trợ, lưu
diện phục lưu khâm.
夫婿结缨簪, 偏蒙汉宠深. 中人引卧内, 副车游上林. 绶染琅琊草, 蝉铸武威金. 分家移甲第, 留妾住河阴. 独寝鸳鸯被, 自理凤凰琴. 谁怜双玉箸, 流面复流襟.
(Chàng đã làm quan đội mũ giắt trâm, rất được ân sủng của
thiên tử nhà Hán. Trung nhân (thái giám) dẫn ra vào trong cung, được ngồi xe
cùng thiên tử dạo chơi vườn Thượng Lâm. Dây thao buộc ngọc đeo bên người có sắc
cỏ vùng Lang Da, trên mũ có gắn cánh ve bằng vàng đúc ở vùng Vũ Uy. Chàng đã hiển
vinh đến ở vào nơi “giáp đệ” của vương công quý tộc, bỏ thiếp một mình ở lại Hà
Âm. Chăn uyên ương một mình thiếp đắp, đàn phượng hoàng một mình mình thiếp khảy.
Ai thương cho hai hàng nước mắt này, đầm đìa trên mặt lại tuôn rơi trên áo.)
https://baike.baidu.com/item/%E7%8B%AC%E4%B8%8D%E8%A7%81/20849597
Lăng hoa 菱花: Tức lăng hoa
kính, tấm kính được đúc bằng đồng, đa phần có hình 6 góc hoặc 8 góc, hoặc cũng
có hình hoa lăng ở mặt sau nên gọi là “lăng hoa kính” 菱花镜.
Bản Chinh phụ ngâm
Hán Nôm hợp tuyển và cả bản Chinh phụ
ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương, câu 241 phần chữ Hán đều viết và
phiên âm là:
強臨鏡玉筋空墜菱花前
Cưỡng lâm
kính, ngọc trở không truỵ lăng hoa
tiền
Chữ 筋này có âm đọc là “cân” nghĩa là gân, gân sức.
Câu 241 bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Gượng soi lệ kết châu chan (206)
Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương, nxb Tân Việt, in
năm 1953 là:
GƯƠNG gượng soi lệ LẠI CHỨA chan
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn
23/9/2021