CƯỠNG CỔ SẮT,
KHÚC TRUNG SẦU YẾT UYÊN ƯƠNG HUYỀN (243)
強鼓瑟曲中愁歇鴛殃絃
Gượng gẩy đàn sắt, khúc đàn u yết dừng dây uyên ương
Câu này lấy ý
từ câu Thục cầm dục tấu uyên ương huyền蜀琴欲奏鸳鸯弦của Lí Bạch
李白.
Lí Bạch李白ở bài Trường tương tư 长相思 (bài 2) viết rằng:
Nhật sắc dục tận hoa
hàm yên. Nguyệt minh dục tố sầu bất miên. Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ.
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền. Thử khúc hữu ý vô nhân truyền. Nguyện tuỳ
xuân phong kí Yên Nhiên. Ức quân điều điều cách thanh thiên. Tích thời hoành ba
mục. Kim tác lệ lưu tuyền. Bất tín thiếp trường đoạn. Quy lai khán thủ minh kính
tiền.
日色欲尽花含烟, 月明素愁不眠. 赵瑟初停凤凰柱. 蜀琴欲奏鸳鸯弦. 此曲有意无人传. 愿随春风寄燕然. 忆君迢迢隔青天. 昔时横波目. 今作泪流泉. 不信妾肠断. 归来看取明镜前.
(Mặt trời sắp lặn, hoa như đang ngậm khói sương. Mặt trăng
sắp sáng trong, thiếp nhớ chàng ngủ không yên. Đàn sắt đất Triệu với trục phượng
hoàng, thiếp vừa mới ngừng đàn. Đàn đàn cầm đất Thục, thiếp muốn khảy dây uyên
ương. Khúc điệu hữu ý nhưng tiếc không
biết đàn cho ai nghe. Nguyện đem khúc điệu này theo gió xuân gởi đến
http://www.exam58.com/tsmj/28584.html
Trong Khang Hi tự
điển, chữ 歇 này với ý nghĩa
là “nghỉ” có phiên thiết là “hứa kiệt” 許竭,
âm 蠍 (hiết).
Chữ 歇này, trong Hán
Việt tự điển của Thiều Chửu cũng có âm đọc là “hiết”, ghi rằng:
1- Hiết: Nghỉ, thôi, tiêu tan.
Như vậy ở câu này, chữ 歇 đọc là “hiết”.
Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương cũng phiên âm là “yết” như ở bản Chinh phụ ngâm Hán Nôm hợp tuyển.
Câu 243 và câu 242 ở trên:
Cưỡng viên cầm, chỉ hạ kinh đình loan
phượng trụ
強援琴指下驚停鸞鳳柱
bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phiếm loan sợ chùng
(207 – 208)
Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương, nxb Tân Việt, in
năm 1953 là:
Dây uyên kinh đứt phiếm loan NGẠI TRÙNG
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 25/9/2021