THI HÀNH LI GIÁN LÍ MỤC VẪN MỆNH
(Tần diệt Triệu)
Tần sau
khi diệt Hàn, mục tiêu tiếp theo chính là nước Triệu.
Triệu vừa
là kẻ địch vốn có lại là kẻ địch mạnh. Hậu kì Tần Chiêu Vương 秦昭王, Tần Triệu kết oán, hai bên đại động can qua. Trận đại
chiến Trường Bình 长平, quân Triệu thảm bại; chiến dịch Hàm Đan 邯郸, quân Tần bại. Chiến tranh giữa hai nước, mỗi nước đều
có thắng bại, nhưng luận về công lực, rõ ràng Triệu không phải là đối thủ của Tần.
Lúc ban đầu khi Tần Vương Doanh Chính 秦王嬴政 lên ngôi, quân Tần
công phạt không ngừng nghỉ, các nước khủng hoảng. Năm nước chư hầu Sở, Hàn, Triệu,
Nguỵ, Vệ mà Sở đứng đầu lại phát khởi hợp tung công Tần. Thống soái chỉ huy
liên quân công Tần là tướng lãnh Bàng Huyên 庞煖của
Sở. Tần bất mãn nước Triệu tiên phong thống lĩnh quân công Tần, sau khi liên
quân năm nước thất bại, liền đối với Triệu dùng quân sự báo thù. Năm 239 trước
công nguyên, Tần phái Trường An Quân Thành Kiểu 长安君成蟜 công Triệu, nhưng Thành Kiểu tại tiền tuyến làm phản, quân Tần thất bại
cáo chung, Triệu tránh được kiếp nạn binh hoả. Năm sau, Lao Ải 嫪毐phát động phản loạn, Tần không có thời gian lo về phía
đông, nên trận chiến giữa hai nước mới tamh thời ngừng.
Sau khi
Tần Vương thân chinh, chiến tranh Tần Triệu lại ngày càng phức tạp. Năm 236 trước
công nguyên, Tần lợi dụng cơ hội Triệu Yên chiến tranh, phái Vương Tiễn 王翦, Hoàn Ỷ 桓齮, Dương Đoan Hoà 杨端和thống lĩnh quân tấn công vùng Thượng Đảng 上党 Hàm Đan 邯郸 của Triệu, từ phía sau tập kích nước Triệu, khiến Triệu
trở tay không kịp, liên tiếp mất thành mất đất. Lộ quân Tần do Vương Tiễn thống
lĩnh, trước sau đoạt lấy Ứ Dữ 阏与 (1) (nay
là Hoà Thuận 和顺 Sơn Tây 山西), Liệu Dương 橑阳 (nay
là Tả Quyền 左权Sơn Tây 山西), tiến quân tương đối
thuận lợi. Tiếp đó, quân Tần tiến hành chỉnh đốn biên chế, Hoàn Ỷ nhậm chức thống
soái, lại đoạt được huyện Nghiệp 邺 (nay là phía nam huyện Từ 磁 Hà Bắc 河北), An Dương 安阳 (nay là An Dương安阳
Hà
Năm 234
trước công nguyên, Tần phái Hoàn Ỷ tấn công Bình Dương 平阳 (nay là phía
tây nam Lâm Chương 临漳 Hà Bắc),
tướng Triệu là Hỗ Triếp 扈辄 binh bại tự sát, sĩ
tốt tử vong 10 vạn người. Nước Triệu về quân sự nhiều lần gặp phải thất bại bèn
lấy Lí Mục 李牧 làm
Đại tướng quân, cùng với Hoàn Ỷ tái chiến ở Nghi An 宜安 (nay là phía
tây nam huyện Tấn 晋 Hà Bắc 河北), Phì Hạ 肥下 (nay là phía tây huyện Tấn 晋 Hà Bắc 河北). Kết quả quân Tần đại bại, Hoàn Ỷ tháo chạy về Tần.
Năm 232
trước công nguyên, quân Tần chia làm hai lộ, một lần nữa phạt Triệu. Một lộ đến
huyện Nghiệp 邺, đánh Bà Ngô 番吾 (2) (nay là huyện
Từ 磁 Hà Bắc
河北); một lộ tiến quân Thái Nguyên 太原, đoạt lấy Lang Mạnh 狼孟
(nay là Dương Khúc 阳曲 Sơn
Tây 山西). Lí Mục một lần nữa đem quân kháng kích, đại phá sự
tấn công Bà Ngô của quân Tần. Quân Tần không dám tái chiến, bị bức phải triệt
xuất khỏi nước Triệu.
Lí Mục
một lần nữa bẻ gãy quân Tần, đến nỗi quân Tần nghe hơi gió đã khiếp sợ. Thế là,
Tần dùng kế phản gián, mua chuộc sủng thần Quách Khai 郭开của
Triệu Vương Thiên 赵王迁, để khiến nước Triệu giết hại Lí Mục. Năm 229 trước
công nguyên, đương lúc nước Triệu liên tiếp phát sinh động đất, sau nạn đói, Tần
thừa cơ phái Vương Tiễn, Dương Đoan Hoà đem binh công Triệu. Lí Mục 李牧, Tư Mã Thượng 司马尚 phụng mệnh
kháng kích. Lúc này, Quách Khai nhận vàng mà Tần mua chuộc, ra sức huỷ báng Lí
Mục, Tư Mã Thượng muốn mưu phản. Quả nhiên Triệu Vương Thiên 赵王迁 trúng
kế, bèn đổi phái Triệu Thông 赵葱, Nhan Tụ 颜聚 thay
Lí Mục. Lúc này đang ở vào tình thế khẩn cấp, Lí Mục cự tuyệt không nhận mệnh,
kết quả bị bắt và bị giết, Tư Mã Thượng cũng bị phế truất.
Năm 228 trước công nguyên, tướng Tần Vương Tiễn đại phá quân Triệu, Triệu Thông bị giết, Nhan Tụ bại trận đào thoát, Triệu Vương Thiên thành tù binh của quân Tần. Tháng 10 năm đó, quân Tần đánh thắng Hàm Đan, nước Triệu diệt vong. Công tử Gia 嘉 nước Triệu chạy sang quận Đại 代, tự lập làm Đại Vương 代王.
Chú của người
dịch
1- Ứ Dữ 閼與 / 阏与:
Về chữ 閼, trong Khang Hi tự điển có 3 bính âm:
- Bính
âm è. Âm Hán Việt là “át”
Đường vận 唐韻 phiên
thiết là 烏割 (ô
cát). Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên
thiết là 阿葛 (a
cát), đều có âm là 遏 (át).
- Bính
âm yù. Âm Hán Việt là “ứ”
Ngũ âm tập vận 五音集韻 phiên thiết là 依倨 (y cứ), âm 飫 (ứ).
- Bính
âm yān. Âm
Hán Việt là “yên”
Quảng vận 廣韻 phiên
thiết là 烏前 (ô
tiền), Tập vận 集韻 phiên thiết là 因蓮
(ân liên). Đều âm 煙 (yên).
(Hán ngữ
Đại từ điển xuất bản xã, 2003)
Theo https://baike.baidu.com/item/%E9%98%8F%E4%B8%8E/6531840,
阏与bính âm là yù yǔ, địa
danh. Thời Chiến Quốc là ấp nước Hàn, sau thuộc Triệu, nay tại phía tây bắc huyện
Hoà Thuận 和顺Sơn Tây 山西.
Như vậy địa danh 阏与 ở đây đọc là Ứ Dữ.
2- Bà Ngô 番吾:
Về chữ 番, trong Khang Hi tự điển có mấy bính âm sau:
Fán fān pó
pān pán bō
bò fàn
pàn
Ở bính
âm pó có ghi:
Tập vận 集韻 phiên
thiết là 蒲波 (bồ
ba), Chính vận正韻 phiên thiết
là 蒲禾 (bồ hoà), đều âm
là 婆 (bà).
(Hán ngữ Đại từ điển xuất bản
xã, 2003)
Theo https://baike.baidu.hk/item/%E7%95%AA%E5%90%BE/8061179,
番吾 bính âm pó - , cổ
địa danh, cũng được viết là 播 / 鄱.
Như vậy địa danh 番吾 ở đây đọc là Bà Ngô.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 20/8/2021
Nguyên tác Trung văn
THI HÀNH LI GIÁN, LÍ MỤC VẪN MỆNH
施行离間 李牧殞命
Trong quyển
TẦN HÁN SỬ THOẠI
秦汉史话
Tác giả: Phan Quốc Cơ 潘国基
Bắc Kinh: Trung Quốc quốc tế quảng bá xuất bản xã,
2007