Dịch thuật: Mộc lan hoa (Âu Dương Tu)

 

木兰花

别后不知君远近, 触目凄凉多少闷! 渐行渐远渐无书, 水阔鱼沈何处问 (1)?

夜深风竹敲秋韵 (2), 万叶千声皆是恨. 故攲单枕梦中寻, 梦又不成灯又烬 (3).

                                                                                         (欧阳修)

MỘC LAN HOA

          Biệt hậu bất tri quân viễn cận, xúc mục thê lương đa thiểu muộn! Tiệm hành tiệm viễn tiệm vô thư, thuỷ khoát ngư trầm hà xứ vấn (1)?

          Dạ thâm phong trúc xao thu vận (2), vạn diệp thiên thanh giai thị hận. Cố khi đan chẩm mộng trung tầm, mộng hựu bất thành đăng hựu tẫn (3).

                                                                                (Âu Dương Tu)

Chú thích

1- Ngư trầm鱼沈: Theo truyền thuyết, thời cổ chim hồng nhạn và cá đều có thể truyền đạt tin tức. Ở bài Ấm mã Trường thành quật hành 饮马长城窟行 trong Nhạc phủ 乐府 có câu:

          Khách tùng viễn phương lai, di ngã song lí ngư. Hô nhi phanh lí ngư, trung hữu xích tố thư.

          客从远方来, 遗我双鲤鱼. 呼儿烹鲤鱼, 中有尺素书.

          (Khách từ phương xa đến, tặng cho ta hai con cá chép. Gọi con đem cá đi nấu, bên trong con cá có tờ thư)

          Ở đây mượn điển này, nhưng nghĩa ngược lại là cá chìm dưới đáy, không thể truyền tin tức cho người. Chữ thông với chữ .

2- Thu vận 秋韵: Tiếng thu

3- Tẫn : Chỉ tim đèn kết thành hoa, khiến đèn lụi dần. 

Dịch ý

          Từ sau khi li biệt, không biết chàng rốt cuộc đi đến nơi nào? Cách nhà bao xa? Riêng ở đây nơi nào cũng đều lưu lại hình bóng của chàng, không ngăn được thiếp đau buồn. Chàng càng đi càng xa, lâu dần ngay cả tin cũng không có. Thiếp muốn đi tìm tung tích của chàng, nhưng sông hồ rộng lớn, cá chìm đáy nước không thể đưa tin, từ nay về sau thiếp làm sao có thể tìm thấy hình bóng của chàng?

          Đêm khuya, tiếng gió thu xào xạc, thổi qua lá trúc, từng lá từng lá, từng tiếng từng tiếng, ngàn vạn lá, ngàn vạn tiếng, dường như đang vì nỗi li hận cất tiếng bi ai. Thiếp tựa gối cô đơn, hi vọng tìm vào giấc ngủ, trong giấc mộng có thể cùng chàng gặp mặt, nhưng mộng đẹp không thành, nửa đêm tỉnh giấc, làm bạn với ngọn đèn lẻ loi đã kết thành hoa chừng sắp tắt.

Điểm bình

          Bài từ viết về nỗi li sầu hận biệt thâm trầm của tư phụ chốn phòng khuê, nhưng từ nhân không hề có một chữ nào nói về hình tượng ngoại mạo của tư phụ hoặc thể thái phục sức, mà chỉ khắc hoạ tình cảm tương tư nội tâm của tư phụ, đó là điểm khác nhau giữa Âu Dương Tu 欧阳修 với từ nhân của Hoa Gian phái花间派 (1) trước đây. Câu “Tiệm hành tiệm viễn tiệm vô thư” 渐行渐远渐无书 ở đoạn trên, ba lần lặp lại  chữ “tiệm” đã khiến tầm mắt của độc giả theo ý nghĩ của tư phụ đi từ gần đến xa, “vô thư” 无书 cùng “bất tri” 不知 ở câu đầu, lại liên quan với “ngư trầm” 鱼沈 ở câu sau đã đem nỗi sầu khổ không biết gọi tên của tư phụ viết ra rất lâm li thống thiết. Đoạn dưới  đã ra sức làm nổi bật thế giới nội tâm sầu khổ ai oán của tư phụ đêm khuya không ngủ, mộng đẹp khó thành. Câu “Vạn diệp thiên thanh” 万叶千声, lấy vô tình tả hữu tình, ảm đạm mà thâm trầm, so với tận tình độc thoại có sức cảm hoá hơn.

Chú của người dịch     

1- Hoa gian phái 花间派: Về ý nghĩa chính thức mà nói, Hoa gian phái chưa thể trở thành một phái, mọi người cho rằng Hoa gian phái là  một hình thái trung gian quá độ giữa ca khúc dân gian đến những sáng tác của văn nhân. Nhân vật đại biểu có Ôn Đình Quân 温庭筠, Vi Trang 韦庄, Trương Bí 张泌… Nói chung, Hoa gian phái hình thành vào thời kỳ động loạn vãn Đường Ngũ đại, có Hoa gian tập 花间集 lưu truyền. Hoa gian phái khởi nguồn từ Ôn Đình Quân 温庭筠 đời Đường và phồn thịnh ở Hậu Thục 后蜀 thời Ngũ Đại. Chủ đề của Hoa gian phái đa phần là miêu tả nỗi khuê oán diễm tình, nó đã đặt nền móng cơ sở cho Từ thời Tống. Giới học giả trước giờ vẫn cho rằng thành tựu nghệ thuật của Hoa gian phái thấp hơn Tống Từ. Hoa gian phái đã trực tiếp ảnh hưởng đến phong cách Từ của Phùng Diên Tỵ 冯延巳 và Lý Dục 李煜.

http://zh.wikipedia.org/zhhk/%E8%8A%B1%E9%97%B4%E6%B4%BE

                                Huỳnh Chương Hưng

                                 Quy Nhơn 16/8/2021

Nguồn

TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ TỪ ĐIỂN

宋词三百首辞典

Biên soạn: Lâm Thân Thanh 林申清

Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1999.

Phụ lục của người dịch

Âu Dương Tu 欧阳修 (1007 – 1072): tự Vĩnh Thúc 永叔, hiệu Tuý Ông 醉翁, về già có hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ 六一居士, người Lư Lăng 庐陵 (nay là Cát An 吉安 Giang Tây 江西). Đậu Tiến sĩ năm Thiên Thánh 天圣 thứ 8 đời Tống Nhân Tông (năm 1030). Từng nhậm chức gián quan, sau làm đến các chức Hàn lâm học sĩ, Xu mật phó sứ, Tham tri chính sự. Lúc mất có tên thuỵ là Văn Trung 文中. Ông là lãnh tụ của phong trào cách tân thơ văn thời Bắc Tống, và là một trong Đường Tống bát đại gia, thơ và từ của ông đều đạt thành tựu cao. Ông từng cùng với Tống Kì 宋祁 tu sửa bộ Tân Đường thư 新唐书, riêng mình ông soạn bộ Tân ngũ đại sử 新五代史. Tập từ của ông có Lục Nhất từ 六一词, Cận thể nhạc phủ 近体乐府, Tuý Ông ngâm thú ngoại biên 醉翁吟趣外编, tổng cộng khoảng hơn 200 bài.

(Nguồn Tống từ tam bách thủ 宋词三百首, Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民 biên soạn, Lưu Văn Lan 刘文兰 chú dịch. Sùng văn thư cục, 2003, trang 24)

Previous Post Next Post