HOANG THÔN
HUYÊN MỘ CẦM (149)
荒村暄暮禽
Nơi thôn vắng râm ran tiếng chim chiều về tổ
Mộ cầm 暮禽: Bầy chim bay về
tổ lúc chiều tối. Vương Duy 王维đời Đường ở bài Quy Tung sơn tác 归嵩山作 viết rằng:
Thanh xuyên đới
trường bạc
Xa mã khứ
nhàn nhàn
Lưu thuỷ như
hữu ý
Mộ cầm tương
dữ hoàn
Hoang thành
lâm cổ độ
Lạc nhật mãn
thu san
Điều đệ Tung
cao hạ
Quy lai thả bế
quan
清川带长薄
车马去闲闲
流水如有意
暮禽相与还
荒城临古渡
落日满秋山
迢递嵩高下
归来且闭关
(Dòng nước trong bao quanh bãi cỏ xanh
Ngựa xe thong dong từ từ đi trên đường
Nước chảy dường như đối với ta có tình ý
Chiều tối bầy chim theo ta quay trở về
Thành trì hoang lương tựa bên bến đò xưa cổ
Ánh nằng chiều trải đầy sắc vàng trên núi mùa thu
Dưới chân Tung sơn cao cao ở nơi xa kia
Quay trở về đóng cửa tạ từ thế tục)
http://www.exam58.com/twwds/489.html
Câu 149 này, bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Hoang thôn nghe tiếng ngọ cầm lao xao
(136)
Câu 149
trong nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn là “mộ cầm” 暮禽tức
bầy chim bay về tổ lúc chiều tối. “Mộ” 暮 có nghĩa là tối,
lúc mặt trời sắp lặn gọi là mộ. Ở bản diễn Nôm là “ngọ cầm” 午禽, “ngọ” 午 là giữa trưa; và chữ “huyên” viết là 暄, cả bản
Chữ
“huyên” 暄 với
bộ (nhật) có nghĩa là ánh mặt trời ấm,
chủ khách hỏi thăm nhau. Còn chữ “huyên” 喧
với bộ 口 (khẩu)
có nghĩa là ồn ào.
Theo ý
riêng, phần chữ Hán đúng ra là chữ 喧 này.
Hoang thôn huyên mộ cầm
荒村喧暮禽
Trong Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương, nxb Tân Việt, in
năm 1953, phần dịch nghĩa là:
Tiếng chim trưa hót xôn xao nơi xóm rậm
Phần diễn
Nôm là:
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/8/2021