TƯ QUY ĐƯƠNG
THỬ SẦU NHAN XÚC (85)
思歸當此愁顏蹙
Lúc này nhớ đến
quê nhà không ngăn nỗi u sầu
Câu này lấy ý từ câu “Tư quy
đương khổ nhan” 思归当苦颜 trong
bài Quan san nguyệt 关山月 của Lí Bạch:
Minh nguyệt xuất Thiên sơn
Thương mang vân hải gian
Trường phong kỉ vạn lí
Xuy độ Ngọc Môn quan
Hán há Bạch Đăng đạo
Hồ khuy Thanh Hải loan
Do lai chinh chiến địa
Bất kiến kỉ nhân hoàn
Thú khách vọng biên ấp
Tư quy đa khổ nhan
Cao lâu đương thử dạ
Thán tức vị ưng nhàn
明月出天山
苍芒云海间
长风几万里
吹度玉门关
汉下白登道
胡窥青海湾
由来征战地
不见几人还
戍客望边邑
思归多苦颜
高楼当此夜
叹息未应闲
(Trăng sáng mọc lên trên Thiên sơn
Xuyên qua biển mây mênh mông
Gió thốc vượt mấy vạn dặm
Thổi đến Ngọc Môn quan
Năm đó quân Hán trực chỉ đến Bạch Đăng đạo
Quân Hồ dòm ngó núi sông Thanh Hải
Nơi đây xưa nay là chiến địa
Tướng sĩ xuất chinh ít thấy người sống sót trở về
Từ nơi biên giới nhìn cảnh tượng biên thành xa xa
Nhớ đến quê nhà không ngăn được nỗi u sầu
Đêm nay thê tử chốn lầu cao
Thở than mãi không thôi)
https://baike.baidu.com/item/%E5%85%B3%E5%B1%B1%E6%9C%88/7037360
Chữ 下 ở đây là động từ, đọc là “há” đúng hơn: “Kim triêu Hán
há Bạch Đăng thành”.
Hán Việt
tự điển của Thiều Chửu, chữ 蹙 này có 2
âm đọc:
- Túc: Bức bách / buồn rầu / kính cẩn.
- Xúc: Đá / theo đuổi.
Bản của
Vân Bình Tôn Thất Lương cũng phiên âm là:
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
đúng ra phiên âm là:
Tư quy đương
thử sầu nhan túc
Câu 85 này, bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây (80)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 18/7/2021