CŨNG LÀ PHẬN CẢI, DUYÊN KIM (3067)
“Kim” là “châm” 針 , “cải”
là “giới” 芥.
Vương
Sung (王充) đời Hán trong Luận
Hành – Loạn long (論衡 - 亂龍) có câu:
Đốn mâu xuyết giới, từ thạch dẫn châm
頓牟掇芥, 磁石引針
(Đốn mâu (tức hổ phách) hút hạt cải, đá nam châm hút
cây kim)
Và Khổng
Dĩnh Đạt (孔穎達) đời Đường khi sớ câu “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” 同声相应, 同气相求 ở quẻ
Càn trong Kinh Dịch cũng đã viết rằng:
Diệc hữu dị loại tương cảm giả, nhược từ
thạch dẫn châm, hổ phách thập giới
亦有异類相感者, 若磁石引針, 琥珀拾芥
(Cũng có vật khác loại tương cảm
nhau như đá nam châm hút cây kim, hổ phách hút hạt cải)
http://www.guoxuemeng.com/guoxue/7585.html
Về sau “kim cải” dùng để ví tình vợ chồng gắn bó. Cũng được dùng để ví sự cảm ứng lẫn nhau giữa sự vật.
Cũng là phận
cải duyên kim
Cũng là máu
chảy ruột mềm chớ sao?
(“Truyện Kiều” 3067 – 3068)
Phận cải
duyên kim: Người xưa đã biết cải bị hổ
phách hút, cái kim bị nam châm hút cho nên nói phận cải duyên kim để chỉ thân
phận người đàn bà bị lệ thuộc vào chồng, không thể tự chủ được.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 01/5/2021