TAM TÀO VÀ KIẾN AN THẤT TỬ
Tam Tào 三曹
Tam Tào 三曹 là
ba cha con họ Tào gồm Tào Tháo 曹操, Tào Phi 曹丕và Tào Thực 曹植. Do những thành tựu của họ về chính trị và văn học rất có ảnh hưởng
đối với văn đàn lúc bấy giờ, cho nên người đời sau đã hợp xưng là “Tam Tào”.
Tào Tháo là văn học gia kiệt xuất thời Kiến An 建安, khai sáng phong khí mới cho văn học Kiến An. Tào Phi sở trường về thi văn cùng từ phú, tác phẩm đại biểu Yên ca hành 燕歌行, toàn bài đều dùng thất ngôn, câu câu áp vận, chiếm địa vị trọng yếu trong lịch sử phát triển của thơ thất ngôn Trung Quốc. Tào Thực là, văn nhân đầu tiên ra sức sáng tác thơ ngũ ngôn, đưa thơ ngũ ngôn của văn nhân lên tầm cao mới mà trước đó chưa từng có. Tác phẩm thơ ngũ ngôn của ông đánh dấu sự thành thục hoàn toàn thơ ngũ ngôn của văn nhân, tản văn và từ phú của ông cũng biểu hiện tính tư tưởng và tính nghệ thuật rất cao, nổi tiếng nhất chính là Lạc thần phú 洛神赋.
Kiến An thất
tử建安七子
“Kiến An thất tử” 建安七子 là hợp xưng bảy văn học gia thời Kiến An 建安 (1) cuối đời Đông Hán. Cách gọi “thất tử” 七子 bắt đầu từ trong Điển luận – Luận văn 典论 - 论文 của Tào Phi 曹丕. Bảy người lần lượt là Khổng Dung 孔融 nước Lỗ, Trần Lâm 陈琳 ở Quảng Lăng, Vương Xán王粲 ở Sơn Dương, Từ Cán 徐干 ở Bắc Hải, Nguyễn Vũ 阮瑀 ở Trần Lưu, Ưng Sưởng 应玚 ở Nhữ Nam, Lưu Trinh 刘桢ở Đông Bình. Cũng nhân vì bảy người đương thời cùng ở tại Nghiệp Trung 邺中, cho nên cũng gọi là “Nghiệp Trung thất tử” 邺中七子.
Sáng
tác của “thất tử” mỗi người đều có phong mạo độc đáo. Khổng Dung sở trường về tấu
nghị tản văn, tác phẩm thể khí cao diệu. Thơ, phú, tản văn của Vương Xán xưng
là “kiêm thiện” 兼善, tác phẩm của ông thiên về trữ tình. Lưu Trinh sở trường
về thi ca, sáng tác của ông khí thế cao vút, cách điệu thê lương. Trần Lâm,
Nguyễn Vũ đương thời nổi tiếng về chương biểu thư kí. Từ Cán thơ phú đều hay, văn
bút tế nhị, thể khí từ tốn. Ưng Sưởng giỏi về thơ, phú, tác phẩm của ông hài
hoà nhưng nhiều màu sắc.
Về đại thể, bảy người này đại biểu cho những tác giả ưu tú thời Kiến An trừ ba cha con họ Tào, cho nên cách nói “thất tử” đã được hậu thế phổ biến nhận đồng.
Chú của người
dịch
1- Kiến An 建安: Là niên hiệu
thứ 3 của Hán Hiến Đế 汉献帝 cuối đời Đông Hán,
thời gian sử dụng từ tháng 1 năm 196 đến
tháng 3 năm 220.
https://baike.baidu.com/item/%E5%BB%BA%E5%AE%89/8722
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 12/3/2021
Nguồn
BẤT KHẢ BẤT TRI ĐÍCH 3000 CÁ VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
不可不知的 3.000
个文化常识
Biên soạn: Tinh Hán 星汉
Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2010