LỄ KINH
(kì 2)
Nghi lễ 仪礼
Nghi lễ仪礼, thời Tiên Tần gọi là “Lễ” 礼, thời Hán gọi là “Lễ” 礼hoặc “Sĩ lễ” 士礼. đại khái là vào khoảng đời Nguyên Đế 元帝triều Đông Tấn xuất hiện cách nói “Nghi lễ” 仪 礼. Sách này ghi
chép lễ nghi cụ thể về cuộc sống thường ngày của quý tộc thời Tiên Tần, là bộ vựng
biên lễ chế thời kì Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Quốc, theo truyền thuyết là bộ
sách Khổng Tử 孔子từng san định mà thành. Thời cổ có cách nói “Lễ nghi
tam bách, uy nghi tam thiên” 礼仪三百, 威仪三千, nhưng do bởi chiến loạn và ngọn lửa đời Tần, đến đầu
đời Hán chỉ còn lưu lại 17 thiên, mà chủ yếu là lễ của giai tầng sĩ, cho nên có
cách nói “Sĩ lễ” 士礼. Nghi lễ 仪礼có tính thực dụng
rất mạnh, có địa vị “ kinh” 经sớm nhất trong “Tam lễ”
礼. Thời Tây Hán, Hán Vũ Đế 汉武帝lập
“Ngũ kinh bác sĩ” 五经博士, Nghi lễ 仪礼 là một trong số
đó. Bản chú thích sớm nhất về sách này là Nghi
lễ chú 仪礼注của Trịnh Huyền 郑玄thời Đông Hán, Giả
Công Ngạn 贾公彦 thời
Đường viết lời sớ, cuối cùng được thu nhập vào “Thập tam kinh chú sớ” 十三经注疏.
Nghi lễ 仪礼 có ảnh
hưởng sâu rộng, bao gồm 8 phương diện lễ nghi cơ bản là tế 祭, tang 丧, quán 冠 (*), hôn 婚, xạ 射, hương 乡, triều 朝, sính, vừa liên quan đến lễ nghi qua lại giữa sĩ với
nhau, đại phu với nhau, chư hầu với nhau, mà còn có lễ nghi qua lại giữa sĩ với
đại phu, đại phu với chư hầu có đẳng cấp khác nhau, nhân đó những lễ chế quy định
trong Nghi lễ 仪礼 vô cùng chi tiết.
Trong đó, Sĩ quán lễ 士冠礼 chuyên luận về
lễ nghi, sắp đặt, cùng trí từ lúc “gia quan” 加 冠 (đội mũ), thích dụng cho quý tộc bao gồm cả thiên tử
trong đó.
Sĩ hôn lễ 士婚礼chuyên luận về lễ tiết lúc lấy vợ thành hôn.
Sĩ tương kiến lễ 士相见礼 chuyên luận về lễ nghi tương kiến giữa sĩ với quý tộc
các cấp.
Hương xạ lễ 乡射礼 có 4
thiên, Hương ẩm tửu lễ 乡饮酒礼 chuyên luận về lễ tụ hội yến ẩm trước khi người làng tập
xạ, Hương xạ lễ 乡射礼 chuyên luận về lễ giữa Châu trưởng với dân thần tập xạ
vào hai mùa xuân thu; Yến lễ 燕礼 chuyên luận về lễ yến ẩm của chư hầu trước lúc tập xạ;
Đại xạ nghi 大射仪chuyên luận về
lễ giữa chư hầu với quần thần lúc tập xạ.
Lễ về triều sính có 3 thiên, Sính lễ 聘礼 là lễ
nghi bang giáo của chư hầu quốc; Công thực
đại phu lễ 公食大夫礼 là lễ chư hầu
thết đãi đại phu; Cận lễ 觐礼 là lễ chư hầu triều cận thiên tử.
Tang lễ
có 4 thiên, Tang phục 丧服, Sĩ tang lễ 士丧礼, Kí tịch lễ 既夕礼, Sĩ ngu lễ 士虞礼 (sẽ
trình bày ở các tiết về tang lễ).
Tế lễ
có 3 thiên, Đặc sinh quỹ thực lễ 特牲馈食礼chuyên luận về
lễ kẻ sĩ hàng năm tế Tổ Nễ 祖祢 (1); Thiếu lao quỹ thực lễ 少牢馈食礼, chuyên luận
về lễ Khanh đại phu tế Tổ Nễ; Hữu tư triệt
有司彻 chuyên luận về
lễ giữa Thượng đại phu tấn thi 傧尸 (2) với Hạ
đại phu không tấn thi.
Nhiều lễ
nghi quý tộc của đời sau đều bắt nguồn từ đây, đồng thời ảnh hưởng đến văn hoá
lễ tục của Nhật Bản và Triều Tiên.
Lễ nghi quý tộc mà Nghi lễ 仪礼 quy định tuy phản ánh xã hội có đẳng cấp, nhưng hàm ý giáo hoá trong đó vẫn có tính thông thường. Ví dụ như trong Kí 记 sau thiên Sĩ quán lễ 士冠礼 có nói: Đích tử tại tông miếu tộ giai 阼阶 (3), tiến lên hành quán lễ 冠礼, chứng tỏ con đã trưởng thành, sẽ là người kế thừa của phụ thân, lễ gia quan cần phải 3 lần, lần lượt là bố quan 布冠, bì quan 皮冠, tước quan 爵冠, lần sau tôn quý hơn lần trước, ý nghĩa là trưởng niên đối với người đời sau có kì vọng về đức tính và công nghiệp, kì vọng đời sau có thể xứng đáng với chiếc mũ lần mà sau tôn quý hơn lần trước. Cho nên “Quán lễ” 冠礼 không chỉ là hình thức, mà còn là thông qua hành vi nghi thức kí thác tốt đẹp đối với lí tưởng thành nhân. Những lễ nghi khác cũng đều bao hàm ý nghĩa luân lí thông thường, không thể đơn giản xem là hình thức vật chất. ... (còn tiếp)
Chú của
nguyên tác
1- Nễ 祢: Xưng vị đối với
phụ thân đã mất, bài vị được đưa vào thờ trong tông miếu vào thời cổ.
2- Tấn thi 傧尸: Thi 尸 là
người sống đóng vai người mất nhận tế lễ. Tấn thi 傧尸tức
thi dẫn đường.
3- Tộ giai 阼阶 tức đông giai 冬阶, là vị trí chủ nhân.
Chú của người
dịch
*- Về chữ 冠: Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu chữ 冠có 2 âm:
- Quan: Cái mũ.
- Quán: Lễ đội mũ.
(Hà Nội:
nxb Hồng Đức, 20015)
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典 có ghi:
- 冠 bính âm guān. Đường vận 唐韻, Tập vận 集韻, Vận hội 韻會phiên thiết là 古 (cổ)完 (hoàn); Chính vận
正韻phiên thiết là 沽 (cô) 歡 (hoan), đều có âm là
官(quan).
- 冠 bính
âm guàn: Đường vận 唐韻, Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻đều phiên thiết
là 古 (cổ) 玩 (ngoạn), 官 (quan)
khứ thanh, tức “quán”.
(Hán ngữ
đại từ điển xuất bản xã, 2003)
Nếu chữ
冠 đọc
là “quan” với bính âm guān
có nghĩa là “cái mũ” (danh từ).
Nếu chữ
冠 đọc
là “quán” với bính âm guàn có nghĩa
là “lễ đội mũ” (động từ).
Với từ冠禮, các tư liệu như:
http://cidian.118cha.com/1439340.html
https://zhidao.baidu.com/question/1499343886932469659.html
đều bính âm là guàn lǐ.
Như vậy chữ 冠 ở đây đọc là “quán” với nghĩa là “lễ đội mũ”, tức “quán lễ” 冠禮.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 20/3/2021
Nguyên tác
LỄ KINH
礼经
Biên soạn:
Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 20019