ĐIỂM DANH
TRƯỚC DẪN CHỰC NGOÀI CỬA VIÊN (2318)
Cửa viên: Chữ Hán là “viên môn” 辕门. Thời cổ khi đế vương đi tuần thú hoặc săn bắn, lúc ở
lại tại một nơi hiểm trở, dùng xe xếp vây lại làm tường, chỗ ra vào dựng hai xe
đối diện, cho hai càng xe giao nhau, hình thành cửa có dạng một nửa hình tròn,
gọi là “viên môn”. Về sau chỉ doanh môn của tướng lĩnh cùng cửa ngoài của quan
thự.
https://baike.baidu.com/item/%E8%BE%95%E9%97%A8
Trong Chu lễ - Thiên quan – Chưởng xá 周礼 - 天官 - 掌舍 có ghi:
Chưởng xá chưởng vương chi hội đồng chi xá.
Thiết bệ hộ tái trùng. Thiết xa cung, viên môn. ...
掌舍掌王之会同之舍. 设梐枑再重. 设车宫辕门.
(Chưởng
xá phụ trách cung xá khi vương ra bên ngoài hội cùng chư hầu. Thiết trí hai lớp
hàng rào mắt cáo để ngăn cấm. Dùng xe vây thành một vòng để làm cung, dùng càng
xe của hai xe đặt đối diện làm cung môn.)
(Chu lễ dịch chú 周礼译注: Dương Thiên Vũ 杨天宇. Thượng Hải - Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2004)
Tiên nghiêm,
trống chửa dứt hồi
Điểm danh,
trước dẫn chực ngoài cửa viên
(“Truyện Kiều” 2317 - 2318)
Tạ lòng, lạy
trước sân mây
Cửa viên lại
dắt một dây dẫn vào
(“Truyện Kiều” 2379 - 2380)
Từ công hờ hững
biết đâu?
Đại quan lễ
phục, ra đầu cửa viên
(“Truyện Kiều” 2511 - 2512)
Cửa viên: Chữ Hán là viên môn. Ngày xưa chỗ quân doanh, nơi
viên tướng đóng, thường dụng càng xe (viên) làm cửa (môn), lấy các cỗ xe làm giậu.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Hán thư: Vệ Thanh dĩ mộ vi phủ, dĩ xa viên
vi môn.
漢書: 衛青以幕為府以車轅為門
(Sách
Hán: Ngươi Vệ Thanh lấy màn làm phủ, lấy xe viên làm cửa quan)
(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)
Huỳnh Chương Hưng
Quy
Nhơn 16/02/2021