NHỮNG CHUYỆN CƯỜI DO TỊ HUÝ GÂY RA
Trong
xã hội phong kiến, chế độ tị huý yêu cầu rất nghiêm ngặt, nếu phạm phải, nhẹ
thì bị phạt, nặng thì sẽ bị bay đầu. Khoảng thời Càn Long 乾隆 triều Thanh, cử nhân Giang Tây 江西Vương Tích Hầu 王锡侯 phụng chỉ san cải khâm định Khang Hi tự điển 康熙字典, khi ông viết lại bộ Tự
quán 字贯, đã đem miếu huý của Khang Hi 康熙, Ung Chính 雍正 cùng ngự danh của Càn Long 乾隆nêu ra, đồng thời lại xếp sau Khổng
Tử 孔子.
Điều này đã phạm vào cấm kị, xúc nộ hoàng đến Càn Long, kết quả, không chỉ
Vương Tích Hầu bị xử trảm, mà nhiều người liên quan cùng tham gia biên soạn bộ
sách đó cũng bị liên luỵ. Người đời sau khi nhắc đến chuyện này nói rằng:
Vương
cử nhân hảo tâm thướng thư
Thư
ngốc tử thân thủ dị xứ
王举人好心上书
书呆子身首异处
(Cử nhân họ Vương có lòng tốt
dâng sách
Chàng mọt sách thân một nơi đầu
một nẻo)
Cho nên, trong xã hội phong kiến, không chỉ người đọc sách mà quan lại cũng phải cung kính cẩn thận đối với việc tị huý, ngay cả bách tính bình dân cũng không dám sơ sót. Đầu đời Đường, khi Đường Cao Tổ Lí Uyên 李渊tại vị, , nhân vì tổ phụ của ông tên Hổ 虎, thế là chữ “hổ” 虎 phải tị huý, dụng cụ dùng để đi tiểu của dân quê lúc bấy giờ gọi là “hổ tử” 虎子, vì tị huý mọi người đã đổi gọi là “mã tử” 马子. Theo truyền thuyết, tên gọi “mã dũng” 马桶 (cái bô – ND) dụng cụ mà hiện tại sử dụng hoặc “trừu thuỷ mã dũng” 抽水马桶 (bô hố xí giật nước – ND) chính là từ lúc đó truyền lại. Người vùng Chiết Giang 浙江 gọi “gia tử” 茄子 (trái cà – ND) là “lạc tô” 落苏, đó là nhân vì thời Ngũ Đại Thập Quốc, Ngô Việt Vương Tiền Lưu 吴越王钱鏐 có người con bị khoèo chân, “qua tử” 瘸子 (người bị khoèo chân) và “gia tử” 茄子 âm đọc tương tự, thế là loại trái này không thể gọi là “gia tử” nữa, đành phải đổi gọi là “lạc tô”. Cách gọi này vẫn còn dùng đến nay.
Do
bởi tị huý, mọi người khi dùng chữ viết chịu sự hạn chế, không thể không thay đổi
phương thức biểu đạt, do đó mà gây ra nhiều phiền phức và chuyện cười.
Mọi
người ai cũng biết câu thành ngữ “Chỉ hứa châu quan phóng hoả, bất hứa bách
tính điểm đăng” 只许州官放火,
不许百姓点灯 (chỉ cho châu quan phóng hoả,
không cho bách tính thắp đèn) chính là do bởi tị huý mà ra. Thời Tống có một vị
châu quan tên Điền Đăng 田登, để tị huý tên “Đăng” 登 (nghĩa là lên), đã đem chữ 灯 (đăng nghĩa là đèn) đồng âm đổi
thành chữ 火
(hoả), gọi “điểm
đăng” 点灯
là “điểm hoả” 点火. Đêm Nguyên tiêu, theo lệ thả
hoa đăng, thế là châu phủ dán tờ cáo thị, viết rằng:
Bản
châu y lệ, phóng hoả tam nhật
本州依例,放火三日
(Bản châu theo lệ, phóng hoả ba
ngày)
Mọi
người theo chuyện cười đó đã làm ra câu thành ngữ trên.
Trong
tiểu thuyết Quan trường hiện hình kí 官场现形记 cũng có nói đến một
câu chuyện cười về tị huý: Cù Nại Am 瞿耐庵 mới đến nhậm chức Hưng Quốc Tri châu 兴国知州, nghe nói nhà của Tri phủ cấp
trên vừa mới có thêm tôn thiếu gia, liền biện một ít lễ vật đến chúc mừng, lễ vật
là 64 đồng bạc, đồng thời viết lên tờ bẩm mấy chữ chúc mừng:
Hỉ
kính lục thập tứ nguyên
喜敬六十元
Nào
ngờ, vị Tri phủ này vốn là người thuộc bát kì, tên là “Hỉ Nguyên” 喜元, còn tên của lão thái gia lại
là chữ số, gọi là “Lục Thập Tứ” 六十四. Trên tờ bẩm chúc mừng vẻn vẹn chỉ có 6 chữ, mà lại viết ra
hết tên huý của hai đời nhà Tri phủ. Kết quả, không cần suy nghĩ cũng có thể biết,
cả tiền và tờ bẩm đều bị vứt hết.
Thời
Ngũ Đại, có một người tên Phùng Đạo 冯道 là ngũ triều nguyên lão. Ngày nọ, Phùng Đạo nhờ mạc liêu giảng
Đạo đức kinh 道德经 cho ông nghe. Mở đầu Đạo
đức kinh là câu:
Đạo
khả đạo, phi thường đạo
道可道,非常道
Chữ
“đạo” 道
trong câu đó chính
là tên huý của ông ta, thế là vị mạc liêu đọc rằng:
Bất
cảm thuyết, khả bất cảm thuyết, phi thường bất cảm thuyết
不敢说,可不敢说,非常不敢说
Dùng “bất cảm thuyết” 不敢说 (không dám nói) để tị huý chữ “đạo”.
Phùng Đạo nghe qua cảm thấy buồn cười.
Còn
có một chuyện cười khác, Triều Tống có người tên Tiền Lương Thần 钱良臣, con của ông ta khi khi đọc bộ Mạnh Tử 孟子, để tránh tên huý “Lương Thần”
của phụ thân, phàm gặp hai chữ “lương thần” 良臣 (bề tôi tốt) đều đổi sang “đa
đa” 爹爹
(cha). Trong sách
có câu:
Cổ
chi sở vị lương thần, kim chi sở vị dân tặc dã.
古之所谓良臣,今之所谓民贼
(Xưa gọi là lương thần thì nay gọi
là giặc hại dân)
Người
con khi đọc đến câu đó, theo lệ đọc thành:
Cổ
chi sở vị đa đa, kim chi sở vị dân tặc dã.
古之所谓良臣,今之所谓民贼
Tiền
Lương Thần nghe qua dở khóc dở cười, không ngờ đứa con vì tị huý mà đem mình mắng
thành tên giặc hại dân.
Có
người vị tị huý mà hành vi của họ gần như là si dại, thực rất buồn cười.
Thời
Bắc Tống có người thi nhân Từ Tích 徐积, do bởi phụ thân anh ta tên “Thạch” 石, nên anh ta cả một đời không
dùng đến đồ bằng đá, đi đường gặp phải đá cũng tránh ra, qua cầu đá phải nhờ
người cõng. May mà quê nhà anh ta đường đá không nhiều, nếu như ở miền núi chắc
anh ta đành phải ngồi mãi trong nhà không ra ngoài.
Cũng
vào thời Bắc Tống, có một người tên Lưu Ôn Tẩu 刘温叟, do bởi phụ thân anh ta tên “Nhạc”
岳, nên anh ta cả đời không nghe
nhạc, bởi chữ 乐
và chữ 岳 đồng âm. Anh ta cũng không đến
chỗ núi cao, bởi núi cao xưng là “nhạc” 岳.
Thi
nhân Lí Hạ 李贺
triều Đường, nhân
vì phụ thân tên Tấn Túc 晋肃, chữ 晋 (tấn) và chữ trong 进 (tấn / tiến sĩ) đồng âm, mà bị bức phải bỏ cơ hội tham gia
thi tiến sĩ. Hàn Dũ 韩愈 từng viết thiên quy khuyến Huý biện 讳辩, ông nói rằng:
Phụ thân tên Tấn, con không đi thi tiến sĩ,
thế thì ví dụ như phụ thân tên Nhân 仁
(lòng thương người), lẽ nào người con ngay cả “nhân” 人 (người)
cũng không thể làm sao.
Nhưng Lí Hạ sợ phải mang tiếng bất hiếu, trước sau không bước đi xa hơn. Do bởi mất đi cơ hội mà cả đời Lí Hạ u uất, cuối cùng ôm nỗi hận sớm rời khỏi nhân thế.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 02/11/2020
Nguồn
TRUNG QUỐC NHÂN DANH ĐÍCH CỐ SỰ
中国人名的故事
Tác giả: Trương Tráng Niên 张壮年
Trương Dĩnh Chấn 张颖震
Sơn Đông hoạ báo xuất bản xã, tháng 9-2005