TRĂM NĂM TẠC
MỘT CHỮ ĐỒNG ĐẾN XƯƠNG (452)
Chữ
đồng: tức “đồng tâm”, ở đây ý nói cùng một lòng yêu nhau.
Trong Kinh Dịch
phần Hệ từ thượng có câu:
Nhị nhân đồng tâm, kì lợi đoạn kim; đồng
tâm chi ngôn, kì xú như lan.
二人同心, 其利斷金; 同心之言, 其臭如蘭
(Hai người mà đồng lòng thì sức mạnh
có thể chặt đứt kim loại; lời nói mà đồng lòng thì thơm như hoa lan)
Ngoài ra còn có các từ “chén đồng”, “dải đồng” cũng biểu thị ý như ở câu 452 này.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương
(“Truyện
Kiều” 451 – 452)
Tông đường chút chửa cam lòng
Cắn răng, bẻ một chữ đồng làm hai
(“Truyện
Kiều” 1953 – 1954)
Chữ đồng: Tức là chữ đồng tâm, mối đồng tâm.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)
Xét: Dải đồng: tức “đồng tâm đới”
同心帶 hoặc
“đồng tâm kết” 同心結. Ý chỉ sợi tơ hoặc sợi gấm có thắt nút “đồng tâm”.
Thơ cổ thường dùng “đồng tâm đới”, “đồng tâm kết” làm vật tượng trưng chỉ đôi
nam nữ yêu nhau. Thành ngữ “Vĩnh kết đồng tâm” 永結同心 là câu chúc
phúc dùng trong hôn nhân, trong cuộc sống, biểu đạt tâm ý của đôi vợ chồng vĩnh
viễn tương thông, luôn hiểu nhau, luôn nương tựa vào nhau.
Bản “Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn
phiên Nôm, câu 452 là:
Trăm năm tạc một chữ đồng TÀNG xương
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 23/10/2020