SUY LÒNG TRẮC DĨ, ĐAU LÒNG CHUNG THIÊN
(1832)
Trắc
Dĩ: ví con nhớ đến mẹ, điển xuất từ Thi – Nguỵ phong – Trắc Hộ 詩 - 魏風 - 陟岵
Trắc bỉ khỉ hề
Chiêm vọng mẫu hề
陟彼屺兮
瞻望母兮
(Trèo lên núi Khỉ kia
Trông ngóng mẹ ta)
Khỉ 屺 là núi không có cây cỏ.
Sinh rằng: “Hiếu phục vừa xong
Suy lòng trắc Dĩ, đau lòng chung thiên”
(“Truyện
Kiều” 1831 – 1832)
Trắc Dĩ: Chỉ lòng nhớ mẹ, do chữ Kinh Thi: “Trắc bỉ Dĩ hề,
Chiêm vọng mẫu hề”, nghĩa là: Trèo lên núi Dĩ kia. Trông ngóng mẹ.
(Đào
Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều”
(Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, ghi rằng:
Thi:
Trắc bỉ dĩ hề, chiêm vọng mẫu hề.
詩: 陟彼屺兮, 瞻望母兮
(Kinh Thi: Lên núi Dĩ kia, trông nom mẹ vậy)
Xét: Chữ 屺, trong Khang Hi
tự điển 康熙字典ghi rằng:
Quảng vận 廣韻, Chính vận 正韻 phiên thiết là 虛里 (khư lí); Tập vận 集韻, Vận hội 韻會phiên thiết là 口己 (khẩu kỉ), đều có âm là 起 (khỉ). Trong Thuyết văn 說文 giải thích là núi không có cây cỏ. Như vậy chữ 屺 đúng ra phải đọc là “KHỈ”.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 07/10/2020