DƯỜNG GẦN RỪNG TÍA DƯỜNG XA BỤI HỒNG
(1926)
Rừng
tía: “Tía” ở đây là màu tía, chữ Hán là “tử” 紫.
“Rừng tía” là dịch từ “Tử trúc” 紫竹. Nơi ảnh thờ hoặc
trang thờ Bồ Tát Quán Thế Âm, hai bên thường có hai vế đối như sau:
Tử trúc lâm trung Quán Tự Tại
Bạch liên toạ thượng hiện Như Lai
紫竹林中觀自在
白蓮座上現如來
(Trong rừng trúc tía có Bồ Tát Quán Tự Tại
Trên toà sen trắng hiện Phật Như Lai)
Trong tín ngưỡng Bồ Tát Quán Thế Âm phỏ biến trong dân gian, người ta cho rằng, “tử trúc lâm” là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Còn trên toà sen trắng là nơi ngự của chư Phật chư Bồ Tát. Như vậy có thể hiểu ý nghĩa biểu đạt của cặp đối đó là, nơi đây là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm, và Bồ Tát Quán Thế Âm đang ngự trên toà sen trắng.
Bụi hồng: chữ Hán là “hồng trần” 洪尘
/ 紅塵, hàm nghĩa như sau:
1-
Bụi đỏ bốc lên khi xe ngựa chạy qua.
Như trong Tây Đô phú 西都賦 của Ban Cố 班固 đời Hán có câu:
Hồng trần tứ hợp, yên vân tương liên
红尘四合,烟云相连
(Bụi đỏ bốc lên tứ phía, khói và mây mù nối liền nhau)
Và như trong bài Quá Thanh Hoa cung 过华清宫 của
Đỗ Mục 杜牧 đời Đường có câu:
Nhất kị hồng trần phi tử tiếu
Vô nhân tri thị lệ chi lai
一骑红尘妃子笑
无人知是荔枝来
(Ngựa trạm phi nhanh bốc lên những đám bụi hồng, nàng
phi tử đang cười
Không ai biết rằng quả lệ chi đã về đến Trường An)
2-
Chỉ nơi phồn hoa đô hội: Trong bài Lạc Dương đạo 洛阳道 của Từ Lăng 徐陵nhà Trần thời Nam
Triều có câu:
Lục liễu tam xuân ám
Hồng
trần bách hí đa.
绿柳三春暗
红尘百戏多
(Liễu xanh cuối xuân dường u ám
Chốn bụi hồng kia ca vũ có nhiều)
Và trong bài Tùng quân hậu kí sơn trung hữu nhân 从军后寄山中友人 của
Vương Kiến 王建 đời
Đường:
Dạ bán thính kê sơ bạch phát
Thiên minh tẩu mã nhập hồng trần
夜半听鸡梳白发
天明走马入红尘
(Nửa đêm nghe tiếng gà gáy dậy chải đầu tóc trắng
Đợi sáng giong
ngựa vào chốn bụi hồng)
3-
Phật giáo và Đạo giáo gọi thế gian là “hồng
trần”. Như trong Kim An Thọ 金安寿, màn thứ 4 của
Giả Trọng Danh 贾仲名 đời
Minh có câu:
Nễ
như kim thướng đan tiêu, phó giáng khuyết, bộ dao đài, tỉ hồng trần trung biệt
thị nhất trùng cảnh giới.
你如今上丹霄, 赴绛阙, 步瑶台, 比红尘中别是一重境界.
Nay ngọc nữ lên chốn đan tiêu, về nơi
giáng khuyết, dạo bước chốn dao đài, so với trong chốn hồng trần là một cảnh giới
khác biệt.
Và trong Tự thuật 自述 bài
thứ 2 của Úc Đạt Phu 郁达夫:
Tiền thân túng bất thị Như Lai
Trích há
hồng trần dã khả ai
前身纵不是如来
谪下红尘也可哀
(Kiếp trước chẳng phải là Như Lai
Bị biếm trích xuống hồng trần cũng đáng buồn)
https://wapbaike.baidu.com/item/%E7%BA%A2%E5%B0%98/2377
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
(“Truyện
Kiều” 1925 – 1926)
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
(“Truyện
Kiều” 1035 – 1036)
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
(“Truyện
Kiều” 3045 – 3046)
Rừng tía: Tức là “Tử trúc lâm” là chỗ Bồ Tát Quan Âm ở, chỉ cõi
Phật
Bụi hồng: Dịch chữ hồng trần. Hồng trần là chỉ cảnh phồn hoa
đô hội (Từ nguyên), đây chỉ cảnh sinh sống tấp nập.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)
Xét: Ở câu 1926 và 3046, “bụi hồng” chỉ thế gian. Còn ở câu 1036, “bụi hồng”
chỉ bụi đỏ khi xe ngựa chạy qua.
Trong “Tư liệu Truyện
Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn
Tài Cẩn phiên Nôm, câu 1035 là
TƯ bề bát ngát xa trông
Và câu 1925 là:
Nàng từ lánh DẤU vườn hoa
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/10/2020