“LÃO ĐẦU TỬ” - CÁCH XƯNG HÔ NÀY TỪ ĐÂU MÀ
RA
Lúc ban
đầu, “lão đầu tử” 老头子 (1) là biếm nghĩa từ. Tương truyền, Kỉ Hiểu Lam 纪晓岚 vốn
được xưng là “thiết xỉ đồng nha” 铁齿铜牙, thụ mệnh biên soạn
bộ Tứ khố toàn thư 四库全书. Một ngày nọ
trời oi bức, nóng đến mức người không chịu nỗi. Kỉ Hiểu Lam nhìn chung quanh,
dù sao thì cũng không có người ngoài, liền cởi áo ở trần làm việc. Vừa mới ngồi
xuống duyệt bản thảo, thì hoàng đế Càn Long đến thị sát. Ở trần mà yết kiến
hoàng đế quả thực là bất kính, mà mặc áo thì không kịp. Kỉ Hiểu Lam đưa mắt
nhìn, liền chui dưới bàn để tránh, Đợi cả buổi, Kỉ Hiểu Lam nghe không có động
tĩnh gì, tưởng là Càn Long đã rời đi, liền thò người ra hỏi:
- Lão đầu tử đi chưa?
Càn
Long ngồi bên cạnh liền hỏi lại:
- Ai là lão đầu tử vậy?
Kỉ Hiểu
Lam lanh trí đáp rằng:
- Lão đầu tử là nói vạn tuế ngài đó! Ngài luôn
được xưng là vạn tuế, coi như là “lão” 老, đứng đầu vạn
dân là “đầu” 头, chân long thiên tử cho nên gọi là “tử”
子, hợp lại chẳng phải là “lão đầu tử” 老头子 sao!
Hoàng đế
Càn Long tự nhiên biết nguyên uỷ liền cười
rồi rời khỏi.
Sự việc
tuy qua đi, nhưng “lão đầu tử” lại lan truyền. Về sau “lão đầu tử” lại phiếm chỉ
người lớn tuổi. Ở một số phương ngôn, thường thêm họ của người đó để gọi.
Chú của người
dịch
1- Lão đầu tử 老头子:
- Lão già (có ý ghét)
- Ông nó, ông ấy (vợ xưng hô với người chồng già)
(“Từ điển Trung Việt” NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội –
1992)
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 08/9/2020
Nguyên tác Trung văn
Trong quyển
THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN
趣味文化知识大全
Thanh Thạch 青石 biên
soạn
Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã,
2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật