PHẬN BỒ TỪ VẸN
CHỮ TÒNG (1477)
Phận bồ: “Bồ” tức “bồ liễu”.
Bồ liễu: tức “thuỷ dương” 水杨 một loại thực vật sinh trưởng bên bờ nước, tính chất mềm yếu, mùa thu lá lại thường rụng sớm, cho nên được dùng để ví người có thể chất yếu đuối suy nhược, cũng thường được dùng để ví phụ nữ.
Bồ liễu: tức “thuỷ dương” 水杨 một loại thực vật sinh trưởng bên bờ nước, tính chất mềm yếu, mùa thu lá lại thường rụng sớm, cho nên được dùng để ví người có thể chất yếu đuối suy nhược, cũng thường được dùng để ví phụ nữ.
Trong Thế thuyết tân ngữ - Ngữ ngôn 世说新语 - 鋙言 của Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆
có chép:
顾悦与简文同年, 而发早白. 简文曰:“卿何以先白?” 对曰:“蒲柳之姿, 望秋而落; 松柏之质, 经霜弥茂.”
Cố Duyệt dữ Giản Văn đồng niên, nhi
phát tảo bạch. Giản Văn viết: “Khanh hà dĩ tiên bạch?” Đối viết: “Bồ liễu chi
tư, vọng thu nhi lạc; tùng bá chi chất, kinh sương di mậu.”
(Cố Duyệt
và Giản Văn Đế cùng tuổi, nhưng tóc của Cố Duyệt sớm bạc. Giản Văn Đế hỏi rằng:
“Tóc của khanh sao lại bạc trước ta vậy?” Cố Duyệt đáp rằng: “Tư chất của bồ liễu
kém, một khi thu về lá úa rụng; còn tư chất của tùng bá cứng cõi, trải qua
sương thu càng tươi tốt.”)
(Thiểm
Tây lữ du xuất bản xã, 2002)
“Bồ liễu”
có thuyết cho là cây thuỷ dương và cây liễu.
Chữ tòng:
Theo lễ giáo phong kiến thời cổ, phụ nữ phải giữ “tam
tùng” (tam tòng).
Trong Lễ nghi – Tang phục 礼仪 - 丧服 có ghi:
Phụ
nhân hữu tam tùng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tùng phụ, kí giá
tùng phu, phu tử tùng tử.
妇人有三从之义, 无专用之道, 故未嫁从父, 既嫁从夫, 夫死从子.
(Phụ nữ có ba điều phải theo, không thể
tự chuyên, cho nên lúc chưa xuất giá thì nghe theo cha, khi đã xuất giá thì
nghe theo chồng, nếu chồng qua đời thì nghe theo con)
Và trong Lễ kí – Giao đặc sinh 禮記 - 郊特牲 cũng có ghi:
Phụ
nhân, tùng nhân giả dã: ấu tùng phụ huynh, giá tùng phu, phu tử tùng tử.
婦人,
從人者也: 幼從父兄, 嫁從夫, 夫死從子.
(Phụ nữ, là người nghe theo lời của
nam nhân: lúc nhỏ nghe theo cha và anh, khi xuất giá nghe theo chồng, nếu chồng
qua đời thì nghe theo con)
(Vương Văn Cẩm 王文錦: “Lễ kí dịch giải”
禮記譯解, Trung Hoa thư cục, 2007)
Phận bồ từ vẹn chữ tòng
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
(“Truyện Kiều”
1477 – 1478)
Cùng đường,
dù tính chữ tòng
Biết người,
biết mặt, biết lòng làm sao
(“Truyện Kiều” 2119 – 2120)
Nàng rằng: Phận
gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp
cũng một lòng xin đi
(“Truyện Kiều” 2217 – 2218)
Phận bồ: Phận yếu đuối của người đàn bà.
Chữ tòng: Tức là đạo tòng phu, người con gái lấy chồng phải đi
theo chồng.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Nữ tắc: Phụ nhân hữu tam tòng, tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
女則: 婦人有三從在家從父出嫁從夫夫死從子
(Sách Nữ
tắc: Đàn bà có ba điều phải theo, khi ở nhà theo cha, khi lấy chồng theo chồng,
khi chồng chết theo con, gọi là tam tòng.)
(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)
Xét: Trong “Tư liệu Truyện Kiều - Bản
Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn phiên Nôm, câu 1478 là:
Đổi thay nhạn CÁ đã CÙNG đầy niên
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 15/8/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật