GIẬU THU MỚI
NẢY GIÒ SƯƠNG (1387)
Giậu thu: Lấy ý từ “đông li” 東籬 (giậu đông) ở
câu:
Thái cúc đông li hạ
采菊東籬下
(Hái cúc bên giậu đông)
trong Ẩm tửu -
kì ngũ 飲酒 - 其五 của Đào Uyên Minh 陶淵明.
Giò sương: Chồi non của cây hoa cúc.
Tô Thức 苏轼 trong
bài Tặng Lưu Cảnh Văn 赠刘景文đã viết:
Hà tận dĩ vô kình vũ cái
Cúc tàn do hữu ngạo sương chi
Nhất niên hảo cảnh quân tu kí
Tối thị tranh hoàng quất lục thì
荷尽已无擎雨盖
菊残犹有傲霜枝
一年好景君须记
最是橙黄橘绿时
(Khi hoa sen rụng hết, ngay cả lá như chiếc lọng che
mưa cũng héo khô
Khi hoa cúc đã tàn, cành của nó hãy còn kiên cường với
sương lạnh
Với cảnh đẹp của một năm anh nên nhớ
Đó chính là lúc cuối thu đầu đông cam đã trổ vàng mà
quýt hãy còn xanh)
Vì thế cúc còn được gọi là “sương cúc” 霜菊, mĩ xưng là “ngạo sương chi hoa” 傲霜之花.
Giậu thu mới
nảy giò sương
Gối yên đã thấy
xuân đường tới nơi
(“Truyện Kiều” 1387 - 1388)
Giậu thu: Bờ rào mùa
thu. Câu 1387 chỉ hoa cúc mới nảy mầm trong mùa sương trên bờ rào.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Lương toán yếu tố thu mộc viết: sương kha
sương điều.
梁算要素秋木曰: 霜柯霜條
(Sách
Toản yếu nhà Lương nói cây mùa thu rằng: cành sương giò sương)
(Sài Gòn: nxb Sống Mới,
1960)
Xét: Theo ý riêng câu 1387 này, Nguyễn Du đã liên tưởng đến
câu “Thái cúc đông li hạ” (Hái cúc bên giậu đông) của Đào Uyên Minh. “Giậu thu mới nảy giò sương” tức hoa cúc
bên hàng giậu lúc vào thu vừa mới trổ chồi non.
Bản “Kim Vân Kiều” của Bùi Khánh Diễn, câu 1387 và 1388 là:
Giậu thu VỪA nảy CHỒI sương
CỔI yên đã thấy xuân đường tới nơi
Trong “Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn
phiên Nôm, 2 câu này là:
HÈ thu VỪA nảy giò sương
XE BỒ đã thấy xuân đường ĐẾN nơi
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 10/8/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật