DA LUẬT BỘI
Da Luật
Bội 耶律倍 (909
– 946): tộc Khất Đan契丹 (1), tên Khất Đan là Đồ Dục 图欲,
tên Hán là Bội 倍, trưởng tử của Liêu Thái Tổ 辽太祖.
Niên hiệu Thần Sách 神册 nguyên
niên (916) được lập làm hoàng thái tử. Niên hiệu Thiên Hiển 天显 nguyên niên (926), Thái Tổ diệt Bột Hải 渤海, kiến lập Đông Đan quốc 东丹国,
phong ông làm Đông Đan Vương 东丹王, xưng Nhân Hoàng
Vương 人皇王. Cai trị Đông Đan, thiết lập tứ tướng bách quan, dùng
Hán pháp. Thái Tổ ban sư trở về, Da Luật Bội làm bài ca dâng lên. Thái Tổ qua đời,
Thuật Luật hoàng hậu 述律皇后muốn lập Đức Quang
德光, ông bị bức phải nhường ngôi vị. Đức Quang lên ngôi,
đó là Thái Tông 太宗. Đức Quang nghi ngờ ông, cho di dời ông cùng dân đến
Đông Bình 东平 (nay
là Liêu Dương 辽阳), đặt vệ sĩ ngầm theo dõi động tĩnh. Da Luật Bội trở
về nước, mệnh cho Hàn lâm học sĩ Vương Kế Viễn 王继远 soạn Đại Đông Đan quốc tân kiến Nam Kinh bi minh 大东丹国新建南京碑铭, cất
thư lâu ở Tây Kinh 西京, sáng tác Lạc
điền viên thi 乐田园诗. Hậu Đường Minh Tông Lí Tự Nguyên 后唐明宗李嗣源 nghe tin, sai người vượt biển mang thư bí mật triệu
ông. Da Luật Bội nói với tả hữu rằng:
- Ta lấy thiên hạ nhường cho chúa thượng, nay
ngược lại bị nghi ngờ, chẳng bằng đi đến nước khác để được như Ngô Thái Bá 吴泰伯 (2).
Thế là dựng
một mộc bài bên bờ biển, bên trên khắc bài thơ rằng:
Tiểu sơn áp đại sơn
Đại sơn toàn vô lực
Tu kiến cố hương nhân
Tùng thử đầu ngoại quốc
小山压大山
大山全无力
羞见故乡人
从此投外国
(Núi nhỏ đè núi lớn
Núi lớn sức
không còn
Xấu hổ gặp người quê cũ
Từ nay đầu bôn ngoại quốc)
Nhà Hậu
Đường dùng nghi vệ thiên tử nghinh đón, ban tên là Mộ Hoa 慕华, sau lại ban cho họ Lí 李,
tên là Tán Hoa 赞华. Hậu Đường Lí Tùng Kha 李从珂 thí quân tự lập,
Da Luật Bội mật báo sứ giả của Đức Quang chống lại. Tùng Kha bại, triệu ông
cùng chết, ông không nghe theo, bị hại. Liêu Thế Tông tức vị, ban tên thuỵ là
Nhượng Quốc Hoàng Đế 让国皇帝, Hưng Tông 兴宗 lại ban thuỵ là Văn Hiến Khâm Nghĩa Hoàng Đế 文献钦义皇帝, miếu hiệu Nghĩa Tông 义宗.
Da Luật
Bội bác học đa tài, rành âm luật, giỏi thư hoạ đồng thời tinh thông y thuật. Lúc ở Liêu, từng mua cả vạn quyển sách, xây Vọng
Hải Đường 望海堂 ở
núi Y Vu Lư 医巫闾 để cất
sách. Giỏi văn chương Liêu Hán, từng dịch Âm
phù kinh 阴符经 ra văn tự Khất
Đan, lại giỏi vẽ nhân vật của đất nước mình, có “Xạ kị đồ” 射骑图, “Lạp tuyết kị đồ”
猎雪骑图, “Thiên lộc đồ” 千鹿图đều
được đưa vào bí phủ triều Tống. Hiện tồn một bài thơ, thấy trong Liêu sử 辽史 bản
truyện, thu nhập vào Toàn Liêu văn 全辽文 quyển 4. Trong Tuyên
Hoà hoạ phổ 宣和画谱, Ngũ đại danh hoạ kí bổ di 五代名画记补遗, Hoạ phẩm 画品đều có những lời đánh giá lên quan đến hoạ phẩm của
ông. Sự tích về cuộc đời Da Luật Bội thấy trong Liêu sử 辽史 quyển 72, Khất
Đan quốc chí 契丹国志quyển 14.
(Tra Hồng Đức 查洪德)
Chú của người
dịch
1- Khất Đan 契丹
- Trong Hán Việt
tự điển của Thiều Chửu, chữ 契 có các âm đọc
như sau:
“khế” “khiết” “tiết” “khất” với nghĩa khác nhau. Riêng
âm “khất” ghi rằng:
Khất
Đan 契丹tên một nước
nhỏ ngày xưa, thuộc tỉnh Trực Lệ bây giờ. Sau đổi là nước Liêu (trang 124).
- Trong
Khang Hi tự điển 康熙字典 trang 187
cũng các âm như trên. Riêng với âm “khất” ghi rằng:
Tập vận 集韻phiên thiết là KHI CẬT 欺訖 (khất).
Khất Đan, quốc hiệu. Tống vi nam triều, Khất
Đan vi bắc triều, hậu cải hiệu Liêu.
契丹,
國號. 宋為南朝, 契丹為北朝, 後改號遼
(Khất
Đan là tên nước. Tống là nam triều, Khất Đan là bắc triều, sau đổi gọi là Liêu)
Như vậy
tên tộc người, tên nước đọc là “Khất Đan”.
2- Ngô Thái Bá 吴泰伯: cũng viết là吴太伯, vị quân chủ đầu tiên của nước Ngô, tổ tông của văn
hoá Đông Ngô 东吴. Tính Cơ 姬, phụ thân là Cổ Công
Đản Phủ 古公亶父, thủ lĩnh của bộ lạc Chu, anh em có 3 người, ông là lớn
nhất, hai người em là Trọng Ung 仲雍 và Quý Lịch 季历. Phụ thân truyền ngôi cho Quý Lịch cùng con là Cơ
xương 姬昌, Thái Bá và Trọng Ung nhường tránh đi nơi khác, dời xuống
Giang Đông 江东, kiến lập Câu Ngô 勾吾.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/6/2020
Nguồn
TRUNG QUỐC VĂN HỌC GIA ĐẠI TỪ ĐIỂN
LIÊU, KIM, NGUYÊN QUYỂN
中国文学家大辞典
辽, 金, 元卷
Chủ biên: Đặng Thiệu Cơ 邓绍基,
Dương Liêm 杨镰
Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2006.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật