XUÂN HUYÊN CHỢT TỈNH GIẤC NỒNG (759)
Xuân
Huyên: tức cha mẹ
Xuân 椿: tức cây Đại
xuân, theo truyền thuyết cổ đại là cây sống rất lâu. Trong Trang tử - Tiêu dao du 庄子 - 逍遥游 có câu:
Thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế
vi xuân, bát thiên tuế vi thu, thử đại niên dã.
上古有大椿者, 以八千岁为春, 八千岁为秋, 此大年也.
(Thời
thượng cổ có cây đại xuân, lấy 8000 năm làm một mùa xuân, 8000 năm làm một mùa
thu, ấy là trường thọ)
Người
xưa bèn lấy cây Đại xuân để ví cho cha, mong cha sống lâu như thế. Về sau, khi
chúc thọ người nam, đều tôn xưng họ là “xuân thọ” 椿寿.
Trong Luận ngữ 论语 có nói, con của Khổng Tử 孔子 là Khổng Lí 孔鲤 vì sợ làm
phiền cha đang suy nghĩ vấn đề, nên đã “xu đình nhi
quá” 趋庭而过 (rảo
bước qua trong sân). Nhân đó người xưa bèn đem chữ “xuân” 椿 hợp
lại với chữ “đình” 庭 thành
“xuân đình” 椿庭, để gọi cha.
Huyên 諼, 谖, 萱: tên một loại cỏ. Biệt danh của cỏ huyên rất nhiều,
như: kim châm 金针, vong ưu thảo 忘忧草,
nghi nam thảo 宜男草, liệu sầu 疗愁, tử huyên 紫萱 , lộc
tiễn 鹿箭, hoàng hoa thái 黄花菜
.... Ta gọi loại hoa này là “hoa hiên”. Theo truyền thuyết cỏ huyên là loại cỏ
khiến người ta có thể quên đi lo âu phiền muộn. Trong Hán văn, 萱草 cũng được viết là 谖草,
谖 (huyên)
có nghĩa là “quên”. Ghi chép sớm nhất về cỏ huyên được thấy ở bài thơ Bá hề 伯兮phần Vệ phong 卫风 trong Kinh
thi. Bối 背có nghĩa là bắc đường 北堂tức
nhà phía bắc. Bắc đường đại biểu cho mẹ. Do vì cỏ huyên là loại cỏ có thể làm
cho người ta quên đi ưu sầu, nên thời cổ, khi người con chuẩn bị đi xa, thường
trồng cỏ huyên ở nhà phía bắc, hi vọng mẹ sẽ giảm bớt nỗi nhớ thương, quên đi
ưu sầu.
Trong Thi kinh – Vệ phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối.
焉得諼草
言樹之背
(Làm sao có được cây cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía bắc)
Xuân huyên chợt
tỉnh giấc nồng
Một nhà tấp nập
kẻ trong người ngoài
(“Truyện Kiều” 759 – 760)
Xót thay!
Huyên cỗi, xuân già
Tấm lòng
thương nhớ biết là có nguôi
(“Truyện Kiều” 2237 – 2238)
Xuân huyên lo
sợ xiết bao
Quá ra khi đến
thế nào mà hay
(“Truyện Kiều” 2837 – 2838)
Xuân huyên:
Xuân đường: nhà có trồng cây xuân, chỉ cha. Người ta thường lộn
là thung đường.
Huyên đường: nghĩa đen là nhà trồng cây huyên, gốc ở Kinh Thi “Yên đắc huyên thảo.
Ngôn thụ chi bối” nghĩa là “làm sao có được cây hoa hiên. Trồng ở chái bắc, nơi
mẹ ở”.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Xét: Bản“Kim Vân Kiều”
(Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, câu
2237 là:
Xót thay THUNG cỗi, HUYÊN già
Chú rằng: Thung thị phụ, huyên thị mẫu
椿是父萱是母
(Thung là cha, huyên là mẹ)
Và câu 2837:
THUNG, huyên lo sợ xiết bao
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 29/5/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật