NGỌN ĐÈN TRÔNG LỌT TRƯỚNG HUỲNH HẮT HIU
(434)
Trướng
huỳnh: “trướng” 帳 là cái màn, “huỳnh” 螢 là con đom đóm.
Xuất từ điển Xa Dận 车胤 đời
Tấn.
Xa Dận 车胤 người đời Tấn,
từ nhỏ đã ham học không biết mệt mỏi, nhưng do vì nhà nghèo không có tiền mua dầu
thắp để buổi tối đọc sách, cảm thấy rất lãng phí thời gian, vô cùng đáng tiếc. Một
đêm mùa hè nọ, Xa Dận thấy trong phòng bay đầy đom đóm, bèn lấy bao vải trắng bắt
đom đóm bỏ vào rồi treo phía trên sách, lấy chút ánh sáng yếu ớt ấy để học.
Trong Tấn thư – Xa Dận truyện 晋书 车胤传 chép rằng:
Xa
Dận cung cần bất quyện, bác học đa thông, gia bần bất thường đắc du, hạ nguyệt
tắc luyện nang thịnh sổ thập huỳnh hoả dĩ chiếu thư, dĩ dạ kế nhật yên.
车胤恭勤不倦, 博学多通, 家贫不常得油, 夏月则练囊盛数十萤火以照书, 以夜继日焉.
(Xa Dận cung kính chăm chỉ không biết
mệt, học rộng biết nhiều, nhà nghèo thường không có dầu để thắp đèn, tháng hè
dùng túi vải trắng đựng mấy chục con đom đóm lấy ánh sáng của nó để đọc sách, đêm
nối tiếp ngày)
Từ điển này có thành ngữ “nang huỳnh
chiếu thư” 囊萤照书 hình
dung gia cảnh bần hàn nhưng chuyên cần học tập.
Nhặt thưa gương rọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt, trướng huỳnh hắt hiu
(“Truyện
Kiều” 433 – 434)
Trướng huỳnh: Huỳnh chữ Hán là con đom đóm. Do điển Xa Dận người
Trung Quốc đời Tấn nhà nghèo không có đèn, bắt đom đóm làm đèn mà học, cho nên
sau người ta dùng từ trướng huỳnh để chỉ bức trướng che buồng học của người học
trò.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Chu
tử hạ độc thư: Dạ thâm tạn lạc huỳnh nhập vi.
朱子夏讀書: 夜深燼落螢入幃
(Bài đọc sách mùa hạ của ông Chu tử:
Đêm khuya ngọn đèn tàn đom đóm vào màn)
Xét: Từ “trướng huỳnh” cả hai yếu tố đều là yếu tố Hán Việt, nhưng trật tự
sắp xếp theo tiếng Việt, nghĩa ở đây chỉ phòng học.
- Bản “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh, in năm
2000, câu 433 là:
Nhặt thưa gương DỌI đầu cành
Và tên nhân vật là TRÁC DẬN.
- Bản “Kim Vân Kiều”do Bùi Khánh Diễn chú thích, câu 433 là:
Nhặt thưa gương GIỌI đầu cành
- “Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn
phiên Nôm, 2 câu này là:
Nhặt thưa gương GIỌI đầu cành
Ngọn đèn trông SUỐT trướng huỳnh hắt hiu
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/3/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật