BÂNG KHUÂNG ĐỈNH GIÁP NON THẦN (439)
Đỉnh Giáp: điển xuất từ lời tựa bài Cao Đường
phú 高唐赋 của Tống Ngọc 宋玉. Lời tựa viết rằng:
“Trước kia, Sở Tương Vương 楚襄王 cùng
Tống Ngọc 宋玉 đến chơi ở đài Vân Mộng 云梦,
từ trên cao nhìn ra xa, thấy cảnh tượng ở Cao Đường 高唐 hiện ra một làn
khí mây kì lạ, mới đầu nhìn như đỉnh của một ngọn núi cao, sau đó nhanh chóng
biến đổi hình trạng, trong phút chốc biến hóa vô cùng. Vương sau khi nhìn thấy
mới hỏi Tống Ngọc: “Đó là mây khí gì?” Tống Ngọc đáp rằng: “Đó chính là triêu
vân”. Vương lại hỏi: “Sao gọi là triêu vân?” Tống Ngọc đáp: “Trước đây tiên
vương từng đến săn bắn ở Cao Đường, ngày nọ vì mệt mỏi nên ban ngày ngủ ở nơi
này, nằm mộng thấy một cô gái xinh đẹp đến nói: “Thiếp là thần nữ ở Vu Sơn, làm
khách ở Cao Đường, nghe nói ngài đến chơi ở Cao Đường, thiếp nguyện đến trải
chăn gối cho ngài.” Thế là tiên vương ngủ cùng cô gái. Lúc từ biệt nàng nói với
tiên vương rằng: “Thiếp ở phía nam Vu Sơn, nơi hiểm yếu trên núi cao, sáng sớm
làm mây, chiều tối làm mưa, sớm sớm chiều chiều ở dưới Cao Đường’”. Sáng sớm hôm
sau, tiên vương thức dậy nhìn, quả nhiên giống như những gì cô gái đã nói. Thế
là dựng một ngôi miếu cho nàng, gọi là “Triêu vân” 朝云.
Vương hỏi: “Khi triêu vân mới xuất hiện có hình trạng
như thế nào?” Tống Ngọc đáp: “Khi mới xuất hiện, um tùm như cây tùng xanh tốt
vươn lên, qua một lúc sau, xinh đẹp yêu kiều như mĩ nữ giương tay áo che lấy mặt
trời, như đang ngóng tình nhân. Bỗng chốc biến đổi hình dạng, nhanh như xe tứ
mã, cao như ngọn cờ, mát như cơn gió, lạnh như cơn mưa. Lúc gió dừng mưa tạnh,
không biết là đi đâu”. Vương hỏi: “Như nay quả nhân có thể đến chơi một chuyến
được chăng?’ Tống Ngọc đáp: “Được”. Vương lại hỏi: “Nơi đó như thế nào?” Tống
Ngọc đáp rằng: “Nơi đó cao lớn sáng rõ, có thể nhìn thấy được rất xa; rộng rãi mênh
mông, vạn vật dường như từ nơi đó sinh ra.Trên tiếp với trời, dưới xuống đến vực,
trân kì quái dị, hùng vĩ tươi đẹp, khó mà nói hết”. Vương bảo rằng: “Khanh thử
làm bài phú cho quả nhân xem thử”. Tống Ngọc đáp: “Vâng”.”
Non thần: tức Thần Nữ phong 神女峰,
còn có tên là Vọng Hà phong 望霞峰, một ngọn núi đẹp
nhất trong 12 ngọn ở Vu Sơn 巫山.
Tương truyền con gái Xích Đế 赤帝 là
Diêu Cơ 姚姬, chưa lập gia đình đã mất, được táng phía nam Vu Sơn 巫山. Sở Hoài Vương đi chơi ở Cao Đường 高唐, ban ngày ngủ nằm mộng gặp được thần nữ. Thần nữ tự
xưng là “Vu Sơn chi nữ” 巫山之女. Người đời sau phụ
hoạ, lập tượng thờ, xưng là “Vu Sơn thần nữ” 巫山神女.
Từ lời tựa bài Cao Đường phú có thành ngữ “Vu sơn vân vũ” 巫山云雨, thành ngữ này vốn chỉ việc làm mây làm mưa của thần nữ Vu sơn trong
truyền thuyết thần thoại nước Sở. Về sau người ta mượn để chỉ việc nam nữ hợp
hoan. Ngoài ra còn có từ “vân vũ” 雲雨 tức “mây mưa” với nghĩa nam nữ hợp hoan cũng xuất phát
từ điển này.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
(“Truyện Kiều” 439 – 440)
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều, nên đã chán chường yến anh
(“Truyện Kiều” 513 – 514)
Cũng là lỡ một
lầm hai
Đá vàng sao nỡ
ép nài mưa mây
(“Truyện Kiều” 1007 – 1008)
Đỉnh Giáp
non thần: Núi Vu Giáp. Trong bài Cao
Đường phú của Tống Ngọc nói tiên vương nước Sở chơi ở đất Cao Đường, nằm mơ thấy
thần nữ ở trên núi Vu Giáp xuống. Ý nói Kim Trọng đang ngủ bỗng thấy Kiều đến,
tưởng như là thần nữ từ núi Vu Giáp xuống.
Mây mưa: Bài Cao Đường phú của Tống Ngọc nói tiên vương nước Sở
nằm mộng thấy thần nữ ở núi Vu Giáp nói: “Thiếp làm mây buổi sáng, mưa buổi chiều”.
Người sau nhân đó dùng chữ “vân vũ” tức “mây mưa” để chỉ trai gái ăn nằm với
nhau.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Sở Tống Ngọc Cao đường phú, Sở Vương thường
du Cao đường, đại nhi trú tẩm, mộng kiến nhất phụ nhân viết: thiếp Vu giáp nữ
dã, vi Cao đường chi khách, văn vương du Cao đường, nguyện tiến chẩm tịch.
楚宋玉高唐賦楚王嘗游糕唐怠而晝寢夢見一婦人曰妾巫峽女也為高唐之客聞王游高唐願進枕席
(Bài
phú Cao đường của ông Sở-Tống-Ngọc: Vua Sở thường ra chơi đất Cao đường mệt quá
mà ngủ ngày, chiêm bao thấy một người con gái xưng là thần ở núi Vu giáp làm
khách đất Cao đường, nghe vua ra chơi đất Cao đường, xin dâng chăn chiếu hầu)
Mây mưa: Vân vũ mộng 雲雨夢. Nói bóng sự trai
gái giao cấu là “Mộng mây mưa”.
(Sài Gòn: nxb Sống Mới,
1960)
Xét:
Bất tình, nổi trận mây mưa
Diếc rằng: “Những giống bơ thờ quen
thân”
(“Truyện Kiều” 1727 – 1728)
“mây mưa” ở câu 1727 này chỉ cơn giận.
Trong Khang Hi tự điển chữ 峽 bính âm là xiá
với các phiên thiết là HẦU GIÁP (HIỆP) 侯夾,
HẠT GIÁP (HIỆP) 轄夾, HỒ GIÁP (HIỆP) 胡夾,
đều có âm là 洽 (hạp/ hiệp). Quảng
vận 廣韻 ghi là 巫峽, sơn danh.
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2002, trang
251)
Như vậy chữ 峽 đọc
là “hạp / hiệp”. 巫峽 đọc là Vu Hạp (Hiệp).
Trong “Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng” của
Nguyên Tôn Nhan, chữ 峽 đọc là “hiệp”.
Phần chữ Nôm ở câu 439 trong các bản “Truyện Kiều”:
- Bản
kinh đời Tự Đức 1870, do Nguyến Quảng Tuân phiên âm và khảo dị viết là 峽.
- Bản
Duy Minh Thị 1872 do GS Nguyễn Tài Cẩn phiên Nôm viết chữ 山 ở
trên và chữ 夾 ở dưới.
- Bản
Nôm cổ nhất 1866 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị và chú giải viết là chữ
“núi” (山 trên,
內 dưới).
- Bản
Nôm cổ nhất Liễu Văn Đường 1871 do Nguyến Quảng Tuân phiên âm và khảo dị cũng
viết là “núi”.
Như vậy, những bản “Truyện Kiều” mà viết với chữ 峽, đúng ra đọc là “hạp” hoặc “hiệp”.
Bâng khuâng đỉnh Hạp (Hiệp) non thần
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 29/3/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật