SẦU ĐONG
CÀNG LẮC CÀNG ĐẦY (247)
“Hộc” 斛 là một
loại dụng cụ dùng để đong thời trước. 10 đấu là 1 hộc, cuối thời Nam Tống đổi lại
5 đấu là 1 hộc.
“Vạn hộc” 萬斛 (muôn hộc) cực ngôn dung lượng nhiều. Trong thơ văn cổ
thường dùng “vạn hộc” để “đong” nỗi sầu, như:
Vạn hộc tân sầu 万斛新愁 (Tống . Lí Di Tốn
李弥逊: Động tiên ca .
Đoạn kiều tà lộ 洞仙歌 . 断桥斜路)
Vạn hộc đôi sầu 万斛堆愁 (Tống . Chu Đôn Nho 朱敦儒: Mộc Lan Hoa mạn
. Chỉ vinh hà tuấn nhạc 木兰花慢 . 指荣河峻岳)
Vạn hộc thanh sầu 万斛清愁 (Tống . Triệu
Đỉnh 赵鼎: Động tiên ca .
Không sơn vũ quá 洞仙歌 . 空山雨过)
Vạn hộc sầu sinh 万斛愁生 (Tống . Tạ Khoa 谢薖:
Điệp luyến hoa . Nhất thuỷ doanh doanh
ngưu dữ nữ蝶恋花 . 一水盈盈牛与女)
Vạn hộc li sầu hưu cánh tố 万斛离愁休更诉 (Tống
. Trương Hiếu Tường 张孝祥 : Thanh ngọc án . Hồng trần nhiễm nhiễm Trường
An lộ 青玉案. 红尘冉冉长安路)
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê
(“Truyện Kiều” 247 – 248)
Sầu đong
càng lắc càng đầy: Đong hạt ngũ cốc
thì càng lắc càng vơi, chứ đong mối sầu thì càng lắc lại càng đầy thêm, tức
càng tìm cách giải sầu thì sầu càng nặng. So với câu: Lửa phiền càng dập càng
khêu mối phiền.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Cổ văn: Sầu trường vạn hộc
古文: 愁腸萬斛
(Bài Cổ
văn: Lòng sầu đong muôn hộc)
(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)
Xét: Theo “Tư liệu Truyện Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn Tài Cẩn
phiên Nôm, thì câu 247 và 248 này là:
Sầu đong càng
KHẮC càng đầy
Ba thu GIỌN lại
một ngày dài ghê
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/02/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật