BÀN VỀ CHỮ “HỈ”
Nói đến
chữ Hán của Trung Quốc, không thể không khâm phục thiên tài tạo chữ của người
xưa. Sức tưởng tượng phi phàm của người xưa, biểu hiện sức sáng tạo đặc biệt. Mặt
trời, mặt trăng, núi, sông ... những vật có hình, có thể dựa theo đó mà sáng tạo
phù hiệu tượng hình để biểu thị; với vật vô hình, cũng có thể áp dụng những
phương pháp tổ hợp lại như hội ý, tá dụ, hình vẽ tượng trưng để biểu hiện.
Người
xưa dùng cách hội ý để biểu thị tâm tư tình cảm, quả thực là điều kì diệu không
thể nói được. Chữ “hỉ” 喜 là hình dung tự biểu hiện tâm tư tình cảm, chữ “hỉ” mà
người xưa sáng tạo ra chính là hiển thị hội ý biểu hiện tâm lí đối với người.
Chữ “hỉ” dùng để biểu thị hàm nghĩa “tâm trung du khoái, hình vu kì biểu” 心中愉快, 形于其表 (sự vui mừng trong lòng, thể hiện ra bên ngoài). Sơ
văn nguyên thuỷ là dùng hình trạng cái trống, thêm hình cái miệng vui cười, biểu
thị sự vui mừng. Về sau lại dùng hai tay bưng chữ “cát” 吉, bên dưới lại thêm hình cái miệng cười, sáng tạo ra
chữ biểu ý xác thực. Diễn biến của chữ “hỉ” đại để là như thế.
Tố chất
vốn có của con người có ý nghĩ chất phác về tình cảm, kì vọng giản đơn của sự
“vui mừng”, nhân sinh hoá thành chữ Trung Quốc, chính là chữ “hỉ”, cát tường và
vui mừng, vĩnh viễn như bóng theo hình, kề vai mà đi. Cho nên, người Trung Quốc
tục xưng “hỉ” 喜là một trong ‘ngũ phúc” 五福,
xem hỉ là niềm hạnh phúc của đời người.
Từ xưa
đến nay, người Trung Quốc đem hạnh phúc, vui vẻ, việc tốt, việc vui gọi chung
là “hỉ sự” 喜事, như việc cưới gả là một đại hạnh phúc của đời người,
dân tục Trung Quốc gọi cưới gả là “hỉ sự; tổ chức hôn lễ gọi là “biện hỉ sự” 办喜事, ngày cử hành hôn lễ gọi là “hỉ nhật tử” 喜日子; cố gái có mang, nhà được thêm người, đương nhiên là
một đại hỉ sự, dân gian luôn gọi sự việc có mang là “hữu hỉ” 有喜. Tôn Chung Linh 孙钟龄 đời Minh trong Đông Quách Kí 东郭记 có viết:
Đại tả tả cận nhật thân nhi giác thô, cảm thị
hữu liễu hỉ dã.
大姐姐近日身儿觉粗, 敢是有了喜也
(Đại tiểu
thư gần đây thân thể cảm thấy thô, có lẽ đã có việc hỉ.
Đến nay
ở một số địa phương, dân gian dùng cách nói “hại hỉ” 害喜để
gọi hiện tượng có mang, dùng chữ “hại” 害 là bởi khi mang
thai thường ói mửa như mắc phải bệnh. Phụ nữ có mang sinh con, cả nhà trên dưới
đều vui mừng, để thân bằng quyến hữu chung vui đại hỉ sự, sai người thông báo
tin tức, gọi là “báo hỉ 报喜.
Mọi người
còn sáng tạo ra hai phù đồ: một là 禧, hai là 囍, gọi cả hai là song hỉ, cả hai chữ này đều có ý nghĩa
biểu hiện hỉ sự đến nhà, cát khánh hoan lạc.
Chữ 禧 này chủ
yếu dùng ở trường hợp lễ tiết, như tân xuân đến, có tập tục dán chữ 禧trên cửa hoặc trên rường nhà. Tâm lí bách tính, tết là
vui vẻ náo nhiệt, hoan thiên hỉ địa, mặc áo mới, tặng quà, truy cầu không khí
đoàn viên ấm áp; đối với bách tính mà nói, thịnh thế phồn hoa chính là một cuộc
sống bình an, không tật bệnh tai hoạ, đủ ăn đủ uống, những điều đó cũng chính
là chữ 禧thu nhỏ. Hứa Thận 许慎 thời Đông Hán
trong Thuyết văn giải tự 说文解字 giải thích chữ
禧 là “lễ cát dã” 礼吉也;
còn trong Từ nguyên 辞源, chữ được giải
thích là “phúc” 福. Nhân đó, câu “cung hạ tân hi” 恭贺新禧 có
nghĩa là “trí lễ chúc phúc”. Chữ 禧 do bộ 示 và chữ 喜 cấu thành, ý nghĩa là “kiến hỉ” 见喜, “thị hỉ” 示喜. “Nhất thiết thuận
tâm, vạn sự như ý” 一切顺心, 万事如意 (hết thảy đều thuận
theo lòng, vạn sự như ý) chính là 禧. Nói một cách thông
tục, là không lo lắng, không vướng tội, không thiếu thốn, không bệnh tật, không
nạn tai, những gì khó khăn đều không có. Ngày tết dán chữ 禧 mang
ý nghĩa “xuất môn kiến hi” 出门见禧 (ra khỏi cửa là gặp hỉ), “đài đầu kiến hi” 抬头见禧 (ngẩng
đầu lên là thấy hỉ).
Chữ 囍 càng
được dùng nhiều trong việc cưới gả. Người Trung Quốc, nam thú nữ giá, luôn
thích dán lên cửa hai chữ 囍, để thể hiện ý hôn
nhân cát tường. Chữ 囍 là từ
hai chữ 喜 và 禧 diễn hoá mà ra. Chữ 囍 đại biểu cho sự
việc đáng được chúc mừng, chữ 禧 chỉ hạnh phúc cát tường, nam hôn nữ giá, thành đôi
thành cặp, chữ 囍 là
hai 喜 chữ
kết hợp, hàm ý phu thê ân ái, thiên trường địa cửu, đương nhiên được mọi người
yêu thích. Chữ 囍 tự
nhiên trở thành từ chỉ thay hôn nhân. Trong hôn tục truyền thống, ngày nghinh
thân, tại cửa nhà của nam nữ hai bên đều dán chữ “hỉ” lớn màu đỏ, nhưng dán chữ
“hỉ” cũng phải để ý; theo tục quy, bên
nam dán chữ 囍, bên nữ dán chữ 禧.
Như vậy 囍 và 禧 phân biệt, hiển thị công năng khác nhau của 喜. Chẳng qua là ảnh hưởng của 禧 không theo kịp 囍, phạm vi dùng cũng không lớn.
Đại viện
Kiều gia 乔家 ở
Bình Diêu 平遥 Sơn
Tây 山西 là trạch viện của truyền nhân đời thứ 3 Kiều Trí Dung
乔致庸, là tứ hợp viện phương bắc Trung Quốc điển hình, kết
cấu và cách thức của sân là chữ 囍, kiến trúc to lớn,
phú lệ đường hoàng. Tại chính giữa cổ thành Bình Diêu có một bài lâu 牌楼 to lớn,
trên đỉnh tầng lầu cao nhất, một bên viết chữ 寿 (thọ), bên kia
viết chữ 囍. Cảnh đẹp đó rất dễ bị du khách sơ ý bỏ qua. Người viết
bài này khi đi đến cổ thành Bình Diêu, nghe nói có thể nhìn thấy chữ 囍, nhưng lúc chụp ảnh lại không dễ gì chụp được. Có
thuyết cho rằng chỉ có người nào ngẩng đầu nhìn thấy mới có thể chụp được. Kì
thực điều đó liên quan đến ánh sáng, chỉ là mọi người không để ý mà thôi.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 02/02/2020
Nguồn
THOẠI THUYẾT HỈ TỰ
话说喜字
Trong quyển
ĐỒ THUYẾT HỈ VĂN HOÁ
图说喜文化
Tác giả: Ân Vĩ 殷伟,
Trình Kiến Cường 程建强
Bắc Kinh: Thanh Hoa đại học xuất bản xã, 2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật