LAN
Mỗi khi
nói đến hoa lan, người ta thường dẫn những câu trong các kinh sách xưa để ca ngợi,
như:
Đồng tâm chi ngôn, kì xú như lan (1)
同心之言, 其臭如兰
(Lời nói mà đồng lòng với nhau thì thơm như hoa lan)
(Dịch kinh 易经)
Nhân thu lan dĩ vi bội
纫秋兰以为佩
(Kết lan mùa thu để đeo)
Dư kí tư lan chi cửu uyển hề
Hựu thụ huệ chi bách mẫu
余既滋兰之九兮
又树蕙之百畹
(Ta đã trồng chín uyển lan
Lại trồng trăm mẫu huệ)
(Li
tao 离骚)
cùng những từ như “quốc hương” 国香, “vương giả hương” 王者香...
đồng thời nói rõ việc trồng và thưởng thức lan có lịch sử lâu dài. Kì thực, đây
là hoàn toàn nhầm lẫn, đem “hoa lan” hiện tại hoà lẫn với “lan” mà thời cổ nói
đến.
Hoa lan
hiện tại là loại hoa mà Hoàng Đình Kiên 黄庭坚,
thi nhân thời Bắc Tống ghi chép. Trong bộ Quần
phương phổ 群芳谱đầu đời Thanh có ghi rằng:
Lan hoa, huệ hoa, nhất loại nhị chủng .....
giai phi cổ chi sở vị lan thảo huệ thảo dã. ..... Kim dĩ lan hoa huệ hoa hợp vi
nhất phổ, lan thảo huệ thảo phụ lục vu hậu, dĩ bị tham khảo.
兰花, 蕙花, 一类二种..... 皆非古之所谓兰草蕙草也. ..... 今以兰花蕙花合为一谱, 兰草蕙草附录于后, 以备参考
(Hoa
lan hoa huệ, một loại mà hai giống ..... đều không phải là loại lan thảo huệ thảo
mà người xưa nói đến. ..... Nay đem hoa lan hoa huệ hợp chung một phổ, lan thảo
huệ thảo phụ lục ở sau, để tham khảo)
Phân loại
như thế là hoàn toàn chính xác. Nhưng những tư liệu ghi chép trong phổ hệ đó vẫn
không tránh khỏi sự lẫn lộn.
Lan thời
cổ có 3 loại: lan thảo 兰草, huệ thảo 蕙草, trạch lan 泽兰đều thuộc loại thực
vật họ cúc.
Lan thảo
gọi tắt là “lan”. Loại cây sống lâu năm, cao khoảng từ 1.2m đến 1.6m, lá hình bầu
dục nhọn, có răng cưa. Mùa thu trổ hoa li ti, nhiều hoa sắp xếp lại như hình
cái lọng, tán hoa hình ống, màu tím nhạt. Sau khi lá khô sẽ phát tán mùi hương.
Lan thảo
có biệt danh là 蕑 (âm
đọc là “gian” 间), trong Thi
kinh 诗经 có câu:
Phương bỉnh gian hề (2)
方秉蕑兮
(Cầm hoa lan mới hái)
Ở phần Truyện 传 viết
rằng:
Gian, lan dã
蕑,
兰也
(Gian là lan)
Thịnh
Hoằng Chi 盛弘之trong Kinh Châu
kí 荆州记 lại gọi lan thảo
là “Đô Lương hương” 都梁香:
Đô Lương huyện (kim Hồ Nam tỉnh Vũ Cương huyện) hữu sơn,
sơn hạ hữu thuỷ thanh thiển, kì trung sinh lan thảo, nhân danh Đô Lương hương.
都梁县 (今湖南省武冈县) 有山, 山下有水清浅, 其中生兰草, 因名为都梁香
(Huyện
Đô Lương (nay là huyện Vũ Cương tỉnh Hồ Nam ) có núi, dưới núi có dòng nước
trong mà cạn, lan thảo mọc nơi đó, nhân đó gọi là Đô Lương hương)
Từ “quốc
hương” 国香mà ở trên nói đến, xuất xứ từ trong Tả truyện 左传 (3). Còn “vương giả hương” 王者香 thấy trong Cầm tháo 琴操 của
Thái Ung 蔡邕 thời Đông Hán.
“Y lan tháo” giả, Khổng Tử sở tác vi dã
..... tự Vệ phản Lỗ, quá Ẩn Cốc chi trung, kiến hương (hương) lan độc mậu, vị
nhiên thán viết: “Phù lan đương vi vương giả hương.”
“猗兰操”者, 孔子所作为也 ..... 自卫返鲁, 过隐谷之中, 见芗(香) 兰独茂, 喟然叹曰: “夫兰当为王者香”.
(“Y lan
tháo” do Khổng Tử làm ra ..... từ nước Vệ trở về lại nước Lỗ, đi qua Ẩn Cốc, thấy
hương lan riêng tươi tốt, liền bùi ngùi than rằng: “Lan đúng là loài hoa vương
giả”.)
Trong bản
Từ nguyên 辞源 cũ có dẫn đoạn văn này, nhưng cuối câu lại thêm rằng:
Hậu nhân xưng lan hoa vi ‘vương giả
hương’
后因称兰花为 ‘王者香’
(Đời sau nhân đó gọi hoa lan là ‘vương giả hương”
Đây là “vẽ rắn thêm chân”, để Khổng Tử nhìn thấy “lan”
hoá thành “hoa lan”.
Đương
nhiên gọi hoa lan là “quốc hương” và “vương giả hương” từ quen sai lâu dần trở
thành đúng; nhưng cần phải biết rằng thực tế đó chỉ là râu ông nọ cắm cằm bà
kia, đó mới đúng là thái độ khoa học.
Khổng Tử
còn nói rằng:
Như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất
văn kì hương (4)
如入芝兰之室, 久而不闻其香
(Như vào nhà có có
chi lan, lâu dần không ngửi được mùi thơm)
(Khổng Tử gia ngữ - Lục bản 孔子家语 - 六本)
Chi lan sinh vu thâm lâm, bất dĩ vô nhân
nhi bất phương (5)
芝兰生于深林, 不以无人而不芳
(Cỏ chi lan mọc nơi rừng sâu, không vì không có người
mà không thơm)
(Khổng Tử gia ngữ - Tại ách 孔子家语 - 在厄)
Chữ 芝 (chi)
đồng với với chữ 芷 (chỉ),
“chi lan” 芝兰 chính
là hương lan. Xem ra Khổng Tử rất có hứng thú với lan. Đời sau có “Đào Uyên
Minh ái cúc” 陶渊明爱菊 “Lâm Hoà Tĩnh hiếu mai” 林和靖好梅, nhưng không có ai nói “Khổng Tử ái lan” 孔子爱兰, đó là do bởi lan không phải là loại thực vật để thưởng ngoạn. .....
(còn tiếp)
Chú của người
dịch
1- Câu này trong Kinh
Dịch, phần Hệ từ thượng:
Tử viết: Quân tử chi đạo, hoặc xuất hoặc xử,
hoặc mặc hoặc ngữ. Nhị nhân đồng tâm, kì lợi đoạn kim. Đồng tâm chi ngôn, kì xú
như lan.
子曰: “君子之道, 或出或处, 或默或语. 二人同心, 其利断金. 同心之言,其臭如兰
(Khổng
Tử bảo rằng: “Đạo của người quân tử, hoặc ra làm quan giúp đời hoặc ở ẩn, hoặc
im lặng, hoặc nói năng. Hai người đồng lòng với nhau thì sức mạnh bén có thể chặt
đứt kim loại. Lời nói mà đồng lòng với nhau thì thơm như lan)
2- Câu này trong bài Trăn vĩ 溱洧 ở Trịnh phong trong Kinh Thi.
3- Ở Tả truyện –
Tuyên Công tam niên 左传 - 三公三年ghi rằng:
Đông, Trịnh Mục Công tuất. Sơ, Trịnh Văn
công hữu tiện thiếp viết Yên Cật, mộng thiên sứ dữ chi lan, viết: “Dư vi Bá Du,
dư nhi tổ dã. Dĩ thị vi nhi tử, dĩ lan hữu quốc hương, nhân phục mị chi như thị.”
冬, 郑穆公卒.
初, 郑文公有贱妾曰燕姞, 梦天使与之兰, 曰: “余为伯鯈, 余而祖也. 以是为而子, 以兰有国香, 人服媚之如是
(Mùa
Đông, Trịnh Mục Công mất.
Ban sơ, Trịnh Văn Công có người
thiếp tên Tên Cật. (Yên Cật) nằm mộng thấy thiên sứ trao cho cành lan, bảo rằng:
“Ta là Bá Du, ta là tổ tiên của bà. Hãy lấy lan làm con, bởi mùi thơm của lan đứng
đầu cả nước, đeo nó bên mình, mọi người sẽ yêu mến bà giống như yêu mến nó.”)
4- Trong Khổng Tử
gia ngữ - Lục bản 孔子家语 - 六本 chép rằng:
Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất,
cửu nhi bất văn kì hương, tức dữ chi hoá hĩ; Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào
ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kì xú, diệc dữ chi hoá hĩ.
与善人居, 如入芝兰之室, 久而不闻其香, 即与之化矣; 与不善人居, 如入鲍鱼之肆, 久而不闻其臭, 即与之化矣
(Ở cùng
với người tốt, như vào nhà có cỏ chi lan, lâu dần không ngửi được mùi thơm, tức
đã hoà cùng mùi thơm của nó; Ở cùng với người xấu, như vào hàng cá khô, lâu dần
không ngửi được mùi hôi, ấy cũng là đã bị hoà vào mùi hôi của nó)
(Khổng tử gia ngữ孔子家语: Vương Ứng
Lân 王应麟 chủ biên, trang 134. Thời đại văn nghệ xuất bản xã,
2003)
5- Trong Khổng Tử
gia ngữ - Tại ách 孔子家语 - 在厄 chép rằng:
Chi lan sinh vu thâm lâm, bất dĩ vô nhân nhi
bất phương. Quân tử tu đạo lập đức, bất
vị cùng khốn nhi cải tiết.
芝兰生于深林, 不以无人而不芳.君子修道立德, 不为穷困而改节
(Cỏ chi
lan mọc nơi rừng sâu, không vì không có người mà không thơm. Bậc quân tử tu
thân lập đức, không vì nghèo khốn mà thay đổi khí tiết)
(Khổng tử gia ngữ孔子家语: Vương Ứng Lân 王应麟
chủ biên, trang 172. Thời đại văn nghệ xuất bản xã, 2003)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 03/01/2020
Nguồn
HOA DỮ VĂN HỌC
花与文学
Tác giả: Giả Tổ Chương 贾祖璋
Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2001
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật