TỪ KHI NÀO TỪ “VẠN TUẾ” CHUYÊN XƯNG CHỈ HOÀNG ĐẾ
(tiếp theo)
Thế thì, từ “vạn tuế” rốt cuộc từ lúc nào chuyên
dùng cho hoàng đế? Ý kiến của giới sử học cũng chưa nhất trí, cách nói bất nhất,
có người cho rằng là sau thời Tần Hán, khi bề tôi triều kiến quốc quân thường
hô “vạn tuế”, nhưng lúc bấy giờ vẫn không phải là từ chuyên xưng chỉ hoàng đế.
Như lễ nghi triều Hán quy định, đối với hoàng thái tử có thể xưng Vạn tuế.
Đương thời trong hoàng tộc vẫn lấy “vạn tuế” để đặt tên, em trai Hán Hoà Đế 汉和帝 tên
là “Lưu Vạn Tuế” 刘万岁. Từ thời Hán đến thời Đường, sự lệ bề tôi xưng “vạn
tuế” cũng thấy ở sách. Đến triều Tống, hoàng đế mới chính thức không cho phép mọi
người xưng là “vạn tuế”.
Trước mắt,
đại đa số cho là “vạn tuế” thuộc về hoàng đế, bắt đầu từ Hán Cao Tổ 汉高祖. Lưu Bang 刘邦 vốn chẳng qua là một kẻ thô lỗ trong giới dân nghèo,
sau khi bước lên bảo toạ hoàng đế, cảm thấy cần phải dùng một phương thức nào
đó để thể hiện công đức và địa vị của mình. Danh thần Thúc Tôn Thông 叔孙通là một người rất thông minh, ông ta nắm bắt được tâm
lí của Lưu Bang, một ngày nọ lúc lên triều, Thúc Tôn Thông nói rằng:
- Bẩm hoàng thượng, thần có việc cần tấu. Thần
cho rằng cần phải chế định chế độ lễ nghi ngự dụng, nếu không sẽ bất lợi cho việc
duy trì sự tôn nghiêm của thiên tử.
Lưu
Bang vô cùng vui mừng, liền hỏi ông ta có cách gì. Thúc Tôn Thông chậm rãi đem
cách nghĩ của mình nói với Lưu Bang, trong đó có một điều cho rằng, hoàng đế là
con của trời, người mà có thể làm hoàng đế đều là người có thiên mệnh sai phái,
cho nên, Hán Cao Tổ Lưu Bang khi lâm triều, mọi người cần phải cùng nhau hô
vang “vạn tuế”, để biểu thị sự chúc phúc và kính sợ của mình. Đồng thời “vạn tuế”
phải là chuyên xưng chỉ hoàng đế, người bình thường không được dùng nữa, chỉ có
hoàng thượng mới có đủ tư cách sống bất hủ đến vạn năm. Lưu Bang lập tức đồng ý
cho thực hiện rộng rãi chế độ nghi lễ này. Từ đó, mỗi lần lên triều sớm, “quần
thần trên điện đều hô vạn tuế”, triều đình trên dưới rất trật tự, ngay cả Lưu
Bang cũng cảm thấy vô cùng khoái ý; “trẫm nay mới biết sự tôn quý khi làm hoàng
đế”. Từ cách nói trên có thể thấy, chuyên xưng “vạn tuế” là bắt đầu từ Lưu Bang
trở đi, đồng thời có liên hệ với cả chế độ lễ nghi triều đình. Chế độ lễ nghi
này, hậu thế không ngừng bổ sung, tu đính, ngày càng hoàn thiện.
Còn có
ý kiến khác cho rằng, từ khi Hán Vũ Đế độc tôn Nho thuật, “vạn tuế” mới được
Nho gia định cho riêng hoàng đế. Truyền thuyết kể rằng, có một lần, Hán Vũ Đế
ra ngoài tuần du, đến Hoá sơn 华山 (1) nguy nga hùng vĩ, sau khi lên đến đỉnh núi, cả đoàn
người nghỉ ngơi trước miếu, độ nhiên truyền đến 3 tiếng hô rắn rỏi mạnh mẽ: “Vạn
tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!”, đám tuỳ tùng vội tìm khắp nơi nhưng không phát hiện thấy
người nào, bởi nơi mà hoàng thất xuất du không cho phép dân thường được đến. Trụ
trì trong miếu nói rằng:
- Ba tiếng hô “vạn tuế” lúc nãy là tiếng hô của
sơn thần, biểu thị sự thần phục đối với việc thiên tử đến nơi đây!
Hán Vũ
Đế vô cùng vui mừng, thế là ban chiếu lệnh cho mọi người trong thiên hạ từ nay
về sau không thể tuỳ tiện sử dụng từ xưng hô “vạn tuế”, chỉ có thể dùng riêng
cho hoàng đế. Trong Hán thư 汉书 có nói, mùa xuân tháng Giêng năm Nguyên Phong 元封, Hán Vũ Đế ban chiếu rằng:
Trẫm có việc đến Hoá sơn, .......... đám lại
tốt bên cạnh miếu đều nghe hô vang 3 lần từ vạn tuế.
15 năm
sau, Hán Vũ Đế lại nhắc lại chuyện cũ:
Đến Lang Da 琅邪 (2), làm lễ “Nhật”日 ở Thành sơn成山. .........
Núi hô vang vạn tuế.
Ý của
Vũ Đế là ngay cả sơn thần sơn thạch cũng đều chúc hô hoàng đế vạn tuế, thần dân há có thể không hô? Từ đó,
trong cung đình, trước bảo điện, tiếng hô “vạn tuế” không dứt bên tai. Xưng vị
đó đã là hoàng đế độc chiếm, người khác nếu dùng là đại bất kính đối, sẽ bị
nghiêm trừng.
Đến triều
Tống, “vạn tuế” đã tuyệt đối thành tôn xưng của “vạn tuế gia”. Trừ hoàng đế ra,
tuyệt đối không cho phép bất kì ai xưng “vạn tuế”, xưng “vạn tuế”, bề tôi quyết
không thể tạp chỉ. Bách tính bình dân nếu như xưng “vạn tuế”, thì hậu quả càng
không thể tưởng tượng. Đại thần bị người ta xưng nhầm vạn tuế, sẽ bị giáng chức.
Con của đại tướng Bắc Tống Tào Lợi Dụng 曹利用
là Tào Nột 曹讷 (3), trong một lần uống say, “lệnh cho người hô vạn tuế”,
người khác tố cáo bị đánh trượng đến chết.
Từ đó
có thể thấy, xưng vị “vạn tuế” từng bước diễn hoá thành từ chuyên xưng chỉ
hoàng đế phong kiến. Còn như rốt cuộc từ lúc nào “vạn tuế” bị hoàng đế độc chiếm
thì còn cần phải tìm hiểu thêm. (hết)
Chú của người
dịch
1- Hoá sơn 華山 (华山)
- Chữ 華 (giản thế 华 )trong
Hán Việt tự điển của Thiều Chửu và
trong Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng
đều thuộc về bộ 艸 (thảo)
ở phần 8 nét (không tính bộ).
Chữ
bính âm hua (thanh 2) âm Hán Việt là ‘hoa”, hua (thanh 4) âm Hán Việt là “hoá”.
Trong Hán điển 漢典, ở âm đọc hua (thanh
điệu 4) có ghi rằng:
1-
見華山 (华山) 條.
2- 姓:
如漢代有華佗
1- Xem điều Hoá sơn
2- Họ: như Hoá Đà đời Hán.
Và trong Khoái học
võng 快学网, ở âm đọc hua (thanh điệu
4) cũng ghi rằng:
1- 山名, 华山
2- 姓. 如: 华佗; 华扁 (古代名医华, 华佗扁鹊的并称)
1- Tên
núi, Hoá sơn.
2- Họ.
Như: Hoá Đà; Hoá Biển (gọi chung Hoá Đà và Biển Thước, hai vị danh y cổ đại)
2- Lang Da 琅邪
Với chữ 邪, theo Khang Hi tự điển 康熙字典, chữ 邪 có mấy
bính âm sau:
Xié (âm Hán
Việt: tà), yé hoặc yá (âm Hán Việt: da), yú (âm Hán Việt: dư), shé (âm Hán Việt: xà), zuǒ (âm Hán Việt: tả)
Với
bính âm yé hoặc yá ghi rằng:
Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là DƯ GIÀ 余遮.
Đều có âm là 耶 (da).
Thuyết văn 說文 nói rằng:
Lang Da, quận danh
琅邪郡名
(Lang Da là tên quận)
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản
xã, 2003, trang 1255)
Trong Hán Việt tự điển 漢越字典 của Thiều Chửu ghi rằng:
邪 Tà: 1- Lệch,
cong. Con người bất chính gọi là gian tà
姦邪; lời nói bất chính gọi là tà thuyết 邪說. Phàm cái gì bất chính đều gọi là tà hết. 2- Yêu tà,
tà ma, như tà bất thắng chánh 邪不勝正 tà
không hơn chánh được. 3 – Nhà làm thuốc gọi bệnh khí là tà, như phong tà 風邪 (tà gió làm bệnh),
thấp tà 濕邪 (khí
ẩm làm bệnh.
Một âm
là da. 1- Lang da 琅邪 tên
một ấp của nước Tề. 2- Dùng làm trợ từ. Cũng dùng làm chữ nói sự ngờ. Tục dùng
như chữ 耶.
(Nhà xuất
bản Hồng Đức, 2015, trang 620)
3- Theo một số tư liệu, tên nhân vật ở đây là Tào Nhuế
曹汭
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 07/9/2019
Nguyên tác Trung văn
“VẠN TUẾ” HÀ THỜI DỤNG TÁC HOÀNG ĐẾ ĐÍCH CHUYÊN XƯNG
“万岁” 何时用作皇帝的专称
Trong quyển
TRUNG QUỐC VỊ GIẢI CHI MÊ
中国未解之谜
Tác giả: Hải Tử 海子
Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật