CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI
Hán Tuyên Đế 汉宣帝 nguyên danh
là Lưu Bệnh Dĩ 刘病已, sau khi lên
ngôi đổi tên là Lưu Tuân 刘询. Ông là vị
hoàng đế thứ 10 của triều Hán, cũng là tằng tôn của Hán Vũ Đế 汉武帝. Tổ phụ của Lưu Tuân là Lệ thái tử Lưu Cứ 戾太子刘据. Ông sinh ra lúc Lệ thái tử gặp phải hoạ hại, may mà
có sự bảo hộ của Đình uý giám Bính Cát 廷尉监邴吉 (1) nên ông mới
bảo toàn được tính mệnh.
Từ năm
73 đến năm 49 trước công nguyên, Hán Tuyên Đế tại vị. Hán Tuyên Đế tiếp tục
chính sách ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, khiến quốc lực ngày
càng khôi phục cường thịnh. Lúc bấy giờ nội bộ Hung Nô tranh quyền đoạt lợi,
chia ra làm mấy bộ, trong đó một nhánh dưới sự lãnh đạo của Hô Hàn Da Thiền vu 呼韩邪单于 (2), đã quy phụ triều Hán vào năm 53 trước công nguyên.
Sau khi
Hán Tuyên Đế qua đời, Hán Nguyên Đế 汉元帝 tức vị. Hô Hàn Da Thiền vu vào năm 33 trước công
nguyên lại đến Trường An 长安, bái kiến Hán
Nguyên Đế, đồng thời xin được hoà thân cùng triều Hán.
Hán
Nguyên Đế đãi theo khách lễ, đáp ứng hoà thân, truyền lời vào hậu cung rằng:
người nào muốn viễn giá Hung Nô, sẽ đãi theo nghi thức công chúa.
Đại bộ
phận cung nữ tuy không muốn cuộc sống tịch mịch trong cung, nhưng cũng không muốn
chịu khổ nơi biên tái. Lúc bấy giờ có một cung nữ tên Vương Tường 王嫱nghe được tin, tự nguyện đến Hung Nô hoà thân. Hán
Nguyên Đế bèn hứa gã Vương Tường cho Hô Hàn Da Thiền vu.
Vương
Tường tự Chiêu Quân 昭君, người Tỉ Quy 秭归 Hồ Bắc 湖北, có thiên tư quốc sắc. Lúc nàng ban đầu nhập cung,
Hán Nguyên Đế dựa vào hình vẽ cung nữ mà triệu hạnh, người nào được ân sủng sẽ
phong làm phi tần. Các cung nữ lũ lượt lối lộ hoạ sư Mao Diên Thọ 毛延寿, thỉnh cầu ông ta vẽ bản thân mình đẹp một chút.
Riêng Chiêu Quân con người chính trực,
không muốn hối lộ cho kẻ tiểu nhân tham lợi này, một xu cũng không đưa. Mao
Diên Thọ vô cùng căm giận, bèn vẽ Chiêu Quân rất xấu, cho nên Chiêu Quân mấy
năm không gặp được Hán Nguyên Đế.
Đợi đến
lúc Chiêu Quân xuất giá, Nguyên Đế triệu kiến Chiêu Quân mới phát hiện nàng vốn
rất đẹp. Nguyên Đế muốn giữ nàng lại, nhưng đã lỡ hứa, cuối cùng đành phải để
Chiêu Quân ra ngoài biên tái.
Sau khi
Chiêu Quân ra đi, Hán Nguyên Đế càng nghĩ càng giận, thế là sai người đem tranh
vẽ Chiêu Quân đến xem. Nguyên Đế phát hiện tranh vẽ với con người Chiêu Quân có
chút giống, nhưng hoàn toàn không vẽ được nét khả ái của nàng. Hán Nguyên Đế được
biết thủ đoạn của Mao Diên Thọ, bèn Đem Mao Diên Thọ ra giết. Để kỉ niệm Hán
Hung hoà thân, Hán Nguyên Đế đổi niên hiệu là “Cánh Ninh” 竟宁.
Hô Hàn
Da Thiền vu đưa Chiêu Quân về tái bắc, phong làm “Ninh Hồ Yên Chi” 宁胡阏氏 (3). Chiêu Quân dần thích ứng với cuộc sống nơi tái ngoại,
đối xử với người Hung Nô rất tốt, người Hung Nô cũng rất thích nàng, tôn kính
nàng. Chiêu Quân khuyên Hô Hàn Da Thiền vu không nên phát động chiến tranh,
nàng lại còn đem văn hoá trung nguyên truyền vào Hung Nô. Từ đó, hai tộc Hán
Hung đối xử hoà mục hơn 60 năm, dọc theo Trường Thành ngựa trâu đầy đồng. Chiêu
Quân xuất tái đã có cống hiến đối với sự phát triển và củng cố mối quan hệ đoàn
kết hữu hảo giữa hai tộc Hán và Hung Nô, trở thành một giai thoại trong lịch sử
quan hệ các dân tộc Trung Quốc.
Phụ lục
Năm 92
trước công nguyên, triều Hán rất phát triển vu thuật, trong cung các nữ vu 女巫 qua
lại nhiều, điều đó khiến Hán Vũ Đế Lưu Triệt 刘彻đại
nộ, giết chết mấy trăm cung nữ và đại thần hành nghề vu thuật, phong khí vu thuật
trở lại bình lặng. Nhưng đại thần Vương Sung 王充 kết oán với Lệ
thái tử Lưu Cứ 戾太子刘据 nói
rằng trong cung hãy còn khí trùng độc. Hán Vũ Đế sai người vào cung tra xét,
phát hiện trong cung thái tử một số lượng lớn tượng người gỗ. Thái tử trong
lòng rất lo sợ. Thiếu phó bên cạnh thái tử là Thạch Đức 石德 sai
người truy sát Vương Sung. Hán Vũ Đế phái binh đối kháng thái tử, thái tử không
thể không phản lại, cuối cùng thái tử binh bại tự sát.
Chú của người
dịch
1- Bính Cát 邴吉 (? – năm 55 trước công nguyên): cũng được viết là 丙吉 tự
Thiếu Khanh 少卿, người nước Lỗ (nay thuộc Sơn Đông 山东), danh thần thời Tây Hán. Bính Cát lúc trẻ nghiên cứu
luật lệnh, ban đầu giữ chức Ngục sử 狱史 nước Lỗ, sau giữ chức Đình uý giám 廷尉监.
Trong nguyên tác in nhầm là
“Kiến uý giám” 建尉监.
2- Hô Hàn Da
Thiền vu呼韩邪单于:
Về chữ 邪:
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典, chữ 邪 có mấy
bính âm sau: xié, yé, yú, yá, shé, zuǒ.
Với
bính âm yé hoặc yá
Đường vận 唐韵 phiên thiết là DĨ GIÀ 以遮.
Tập vận 集韵, Vận hội 韵會, Chính vận 正韻 phiên thiết là
DƯ GIÀ 余遮
Đều có âm là 耶 (da).
Trong Thuyết văn 說文 có Lang Da 琅邪, tên quận. Có Mạc
Da 莫邪, tên kiếm, do Đại phu Mạc Da莫邪
nước Ngô tạo ra nên có tên như thế.
Có Hô
Hàn Da 呼韓邪, tên của Hung Nô vương. Nhược Da 若邪 tên
sông. Tư Da 胥邪 tên cây.
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản
xã, 2002, trang 1255)
3- Ninh Hồ Yên
Chi 宁胡阏氏:
Hai chữ
阏氏 đọc
là 焉支 (yên
chi), ý nghĩa là vương hậu.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 15/9/2019
Nguyên tác Trung văn
CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI
昭君出塞
Trong quyển
TRUNG QUỐC LỊCH SỬ CỐ SỰ (tập 2)
中国历史故事
Biên soạn: Sơ Dương Tả Tả 初阳姐姐
Trường Xuân: Cát Lâm văn sử xuất bản xã, 2015
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật