BÍ ẨN VỀ TẤM BIA KHÔNG CHỮ CỦA VÕ TẮC THIÊN
Trên
Lương sơn 梁山 phía
tây bắc huyện Càn 乾 tỉnh
Thiểm Tây 陕西, có một lăng mộ hoàng gia vô cùng khí thế hùng vĩ, đó
là Càn Lăng 乾陵. Càn Lăng là mộ hợp táng Đường Cao Tông Lí Trị 唐高宗李治 cùng
với hoàng hậu tức nhất đại nữ hoàng Võ Tắc Thiên 武则天hai
bên đông tây của Càn Lăng dựng 2 tấm bia mỗi tấm cao khoảng 6m, phía tây là
“Thuật Thánh bi” 述圣碑, bi văn do Võ Tắc Thiên soạn, ca tụng công tích lúc
sinh tiền của Đường Cao Tông, còn phía đông chính là tấm bia không chữ (vô tự
bi 无字碑) nổi tiếng.
Võ Tắc
Thiên là vị nữ hoàng đế duy nhất của Trung Quốc cổ đại. Quách Mạt Nhược gọi bà
là “kì nữ tử” 奇女子. Nhưng vị nữ tử từng hô mưa gọi gió trong lịch sử
Trung Quốc này, sau khi mất lại không theo lệ cũ dựng bia trước lăng mộ để biểu
chương công tích lúc sinh tiền. Tại sao lúc sống rất oanh liệt, nhưng sau khi mất
lại tự cam chịu trầm mặc?
Có người
cho rằng, Võ Tắc Thiên từ nhỏ đã thông minh, trí tuệ hơn người, lập tấm bia không
chữ chính là biểu hiện một ý định đặc biệt. Bà cho rằng, công đức của mình vô lượng, không thể dùng văn tự để biểu
thuật, lấy ý từ một câu trong Luận ngữ 论语:
Dân vô đức nhi danh yên (1)
民无德而名焉
cho nên lập bia không chữ.
Cũng có
người cho rằng, Võ Tắc Thiên lập bia không chữ hoàn toàn không phải là để khoe
bản thân mình, mà ngược lại, lúc về già bà đã nhanh chóng tỉnh ngộ, cảm thấy tội
chướng nặng nề, không mặt mũi nào để thuật lại. Khi còn là Chiêu Nghi 昭仪, bà mưu hại Vương hoàng hậu 王皇后 và Tiêu thục phi 萧淑妃,
cuối cùng giết chết hai người. Sau khi lên làm hoàng hậu, bà lại thi triển thủ
đoạn chính trị cay độc, bồi dưỡng vây cánh, tiêu diệt những ai khác với mình,
ngay cả Trưởng Tôn Vô Kị 长孙无忌 cũng bị bà bức phải tự sát; sau khi lên ngôi đế, thực
hành chính sách càng “sắt máu” hơn, nhậm dụng khốc lại, lạm dụng hình phạt, trấn
áp một cách tàn khốc thế lực phản đối, sát hại một loạt đại thần. Đặc biệt, bà
đã đổi Lí Đường 李唐 sang
Đại Chu 大周,
đại nghịch bất đạo, hổ thẹn với liệt tổ liệt tông.
Còn có
một thuyết chiết trung, đó là Võ tắc Thiên tự tri, biết người đương thời đối với
bà có cái nhìn bất nhất, nghị luận cũng nhiều, thế nên lưu lại tấm bia không chữ,
“đúng sai công tội, để người đời sau bình luận”.
Gần
đây, đối với tấm bia không chữ của Võ Tắc thiên có một thuyết mới, cho rằng, bi
văn (bài văn bia) của tấm bia đó có khả năng đã bị chôn dưới địa cung. Nhân vì
bề mặt của tấm bia không chữ đã có những ô kẻ chỉnh tề, dường như là đã chuẩn bị
kĩ cho việc chạm khắc bi văn.
Ai đúng
ai sai, đến nay hãy còn là một bí ẩn.
Chú của người
dịch
1- Ở thiên Quý
thị 季氏 trong Luận ngữ 论语 có đoạn:
Tề Cảnh Công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xưng yên. Bá Di, Thúc Tề
ngạ vu Thú dương chi hạ, dân đáo vu kim xưng chi.
齐景公有马千驷, 死之日, 民无德而称焉. 伯夷. 叔齐饿于首阳之下,民到于今称之.
(Tề Cảnh
Công có một ngàn cỗ xe, nhưng khi chết, dân cho là không có công đức gì đáng để
khen ngợi. Nhưng Bá Di, Thúc Tề chết đói ở núi Thú Dương, đến nay dân vẫn còn
khen ngợi họ.)
Theo Vương Lực 王力 trong Trung Quốc cổ đại văn hoá thường thức 中国古代文化常识
cho rằng: với câu “Tề Cảnh Công hữu mã
thiên tứ” 齐景公有马千驷, ở đây không phải nói là Tề Cảnh Công có 4000 con ngựa,
mà là nói có 1000 cỗ xe.
(Trang
96, Trung Quốc nhân dân đại học xuất bản xã, 2015)
Như trong
nguyên tác nói rằng, lấy ý theo câu “dân vô đức nhi xưng yên” ở Luận ngữ, xét thấy không hợp với nội
dung.
“Vô đức nhi xưng” 无德而称có 2 nghĩa:
- Không
có công đức gì để có thể khen ngợi.
- Công
đức to lớn không thể dùng lời để nói.
Câu “dân vô đức nhi xưng yên” ở
đây chính là ý nói công đức của Võ Tắc Thiên to lớn không gì sánh bằng, không
thể dùng lời để nói.
Trong Hậu Hán thư – Hoàng Hiến truyện luận 后汉书 -黄宪传论 có
đoạn:
Sĩ quân tử kiến chi giả, mị bất phục thâm viễn,
khứ tì lận. Tương dĩ đạo chu tính toàn, vô
đức nhi xưng hồ?
士君子见之者, 靡不服深远, 去玼吝. 将以道周性全, 无德而称乎?
(Sĩ
quân tử khi gặp được ông ta (Hoàng Hiến), không ai là không bội phục
sâu xa, từ bỏ khuyết điểm của mình, nhân vì ở ông, với
đạo thì chu đáo hoàn bị, với tính thì toàn nhất, không có đức tháo danh xưng
nào thích hợp để khen ngợi.)
Lí Hiền
李贤 chú
rằng:
Đạo chu bị, tính toàn nhất. Vô đức nhi xưng,
ngôn kì đức đại vô năng danh yên.
道周备, 性全一. 无德而称,言其德大无能名焉.
(Với đạo
thì chu đáo hoàn bị, với tính thì toàn nhất. “Vô đức nhi xưng”, ý nói đức lớn
không thể gọi tên được.)
Như vậy,
câu “dân vô đức nhi xưng yên” ở đây phải là lấy ý từ Hậu Hán thư – Hoàng Hiến truyện luận mới đúng.
Trong
nguyên tác ghi là “dân vô đức nhi danh yên” 民无德而名焉
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/7/2019
Nguyên tác Trung văn
VÕ TẮC THIÊN VÔ TỰ BI CHI MÊ
武则天无字碑之谜
Trong quyển
TRUNG QUỐC VỊ GIẢI CHI MÊ
中国未解之谜
Tác giả: Hải Tử 海子
Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật