TRƯỜNG XUÂN CHÂN NHÂN
Khâu Xử Cơ 丘处机 (1) là đạo
sĩ nổi tiếng thời Kim, Nguyên, hiệu Trường Xuân Tử 长春子,
người đời xưng là Trường Xuân Chân Nhân 长春真人, là một trong Toàn Chân Đạo Bắc thất chân 全真道北七真của Đạo giáo, tổ sư mà Long Môn phái 龙门派 tôn phụng.
Đạo
giáo rất ít dùng tổ chức thân phận trực tiếp tham gia chính trị xã hội, nhưng
Khâu Xử Cơ vẫn dùng ảnh hưởng và hành động của mình, tích cực phục vụ xã hội.
Mùa
xuân năm 1220, Khâu Xử Cơ đã gần 80 tuổi trú tại Ngô Thiên quán 吴天观ở Lai Châu 莱州 Sơn Đông 山东 tu đạo. Đương thời Thành Cát Tư Hàn (Hãn) 成吉思汗 (2) tây chính đến Đại Tuyết sơn 大雪山 (nay là trong
biên gới A Phú Hãn 阿富汗) (Afghanistan
– ND), nhân mộ danh Khâu Xử Cơ, đã đặc biệt phái thị thần Lưu Trọng Lộc 刘仲禄 đi mời
đến truyền giáo. Đại Tuyết sơn cách Sơn Đông không biết mấy ngàn vạn dặm, lại
thêm gặp phải chiến loạn, đường đi hung hiểm, nhưng Khâu Xử Cơ vốn có hoằng
nguyện “dục bãi can qua trí thái bình” 欲罢干戈致太平 (muốn dẹp can qua đem lại thái bình), không nghĩ đến tuổi cao, vẫn cứ
đi, vượt bao gian khổ, đến tháng 3 năm 1222 mới tới hành dinh của Đại Hàn
(Hãn). Lúc bấy giờ Thành Cát Tư Hàn (Hãn) đang tây chinh, hàng ngày đều chiến đấu,
cho nên có một cơ hội là Khâu Xử Cơ liền dùng lời “trừ tàn khứ bạo” 除残去暴 tiến dâng Đại Hàn (Hãn), đồng thời nhấn mạnh:
- Phàm
muốn thống nhất thiên hạ, nhất định không được hiếu sát.
Cuối cùng, Thành Cát Tư Hàn (Hãn) tiếp nhận
cách nói của ông, chủ động hỏi tới phương kế trị lí thiên hạ. Khâu Xử Cơ đáp rằng:
- Phải lấy việc kính trời yêu dân làm gốc.
Cách
nói này được Thành Cát Tư Hàn (Hàn) tán thưởng, đồng thời ban cho Khâu Xử Cơ một
đạo thánh chỉ và một lệnh bài đầu hổ, cho phép Khâu Xử Cơ cứu trợ dân chúng vô
tội.
Trên đường
trở về, Khâu Xử Cơ lợi dụng thánh chỉ và lệnh bài đầu hổ mà Đại Hàn (Hãn) ban
cho, làm rất nhiều việc có ích cho dân sinh. Đương thời, quân Nguyên giẫm đạp
trung nguyên, đặc biệt là Hà Nam
河南, Hà Bắc 河北 bị nghiêm trọng, nhiều dân chúng một khi bị bắt làm tù
binh thì không có cách nào đào thoát tính mệnh. Khâu Xử Cơ sau khi về đến đất
Yên 燕 (nay
là thành phố Bắc Kinh 北京), liền phái đồ đệ
mang thánh chỉ và lệnh bài đầu hổ, chiêu cầu dân chúng sau khi bị bắt làm nô lệ,
lên đến hai ba vạn người. Sau đó, Khâu Xử Cơ tuân thủ giáo đạo “công thành thân
thoái” 公成身退 của
Lão Tử 老子, quyết không giành công, cũng không ngạo mạn, đợi sau
khi hoàn thành công việc liền lập tức thoái cư.
Chú của người dịch
1- Về chữ 处/處:
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典 có các bính âm như sau: chǔ (âm Hán Việt: xử), chù (âm Hán Việt: xứ), jù
(âm Hán Việt: cứ).
(“Khang
Hi tự điển”, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003, trang 1046)
tên nhân vật丘处机 / 丘處機 ,
Trung văn bính âm là , (丘處機 ;pinyin :
) như vậy ở đây phiên âm là
Khâu Xử Cơ.
2- Về chữ 汗:
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典có các bính âm như sau: hàn (âm Hán Việt: hãn), hán (âm Hán Việt: hàn), gān (âm Hán Việt: can).
- Với âm
“hàn” bính âm hán:
“Đường vận”: hồ an thiết.
“Tập vận”, “Vận hội”, “Chính vận”: hà
can thiết. Tịnh âm 寒 (hàn)
Khắc Hàn, tù trưởng chi xưng. Độc nhược
克韓 (khắc hàn).
Hựu Bàn Hàn, Hán huyện danh. Độc Bàn
Hàn.
“唐韻”: 胡安切.
“集韻”, “韻會”, “正韻”: 河干切. 並音寒.
可汗, 酋長之稱. 讀若克韓.
又番汗, 漢縣名. 音盤寒.
“Đường
vận” phiên thiết là hồ an.
“Tập vận”,
“Vận hội”, “Chính vận” phiên thiết là “hà can”. Đều có âm đọc là (hàn).
可汗 “Khắc hàn là từ gọi
tù trưởng. Đọc như 克韓 “khắc hàn”.”
Lại có
Bàn Hàn, tên một huyện đời Hán. Đọc là “Bàn Hàn”.
(“Khang Hi tự điển”, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003,
trang 553)
Trong
Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có âm
“hãn” và “hàn”. Với âm “hàn” ghi rằng:
Một âm là hàn, vua rợ Đột quyết gọi là khả hàn 可汗.
(Ở chữ 可trang 73 thì có âm đọc
là khắc hàn, ở đây lại là khả hàn. Chắc có lẽ tác giả nhầm – ND)
(Nhà xuất
bản Hồng Đức, 2015, trang 299)
Trong Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng của
Nguyễn Tôn Nhan, chữ 汗 cũng có 2 âm đọc:
“hãn” và “hàn”. Với âm “hàn” ghi rằng:
Vua Hung Nô được gọi là Khả Hàn 可汗 (cũng quen đọc là Hãn)
Ở chữ 可 ghi
rằng:
Tên gọi vua Tây Vực (Khả Hãn 可汗, đọc như Khắc Hàn)
(Nhà xuất
bản TP Hồ chí Minh, 2002, trang 736, trang 195)
Như vậy
chữ 汗 với nghĩa là tù trưởng đọc là “Hàn”, ta quen đọc là
“Hãn”. 可汗 đọc là “Khắc Hàn”, ta quen đọc là “Khả Hãn”.
成吉思汗 theo Trung
văn, bính âm là chéng jí sī
hán, như vậy tên nhân vật đọc là
Thành Cát Tư Hàn, nhưng ta quen đọc là Thành Cát Tư Hãn.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 19/6/2019
Nguyên tác Trung văn
TRƯỜNG XUÂN
CHÂN NHÂN
长春真人
Trong quyển
BÁCH GIA TÍNH
百家姓
Biên soạn: Triệu Dương 赵阳
Cát Lâm Đại học xuất bản xã, 2005
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật