CUNG A BÀNG VÌ SAO LẤY TÊN LÀ “A BÀNG”
Tần Thuỷ
Hoàng 秦始皇 sau khi diệt 6
nước hoàn thành đại nghiệp thống nhất, tự cho mình công đức hơn cả Tam Hoàng
Ngũ Đế 三皇五帝, thế là tại đô thành Hàm Dương 咸阳 cho
khởi công xây dựng cung điện để bản thân hưởng dụng. Trong những cung điện được
xây dựng, quy mô to lớn nhất đó là cung A Bàng 阿房 (1). Theo Sử kí – Tần
Thuỷ Hoàng bản kỉ 史记 - 秦始皇本纪, điện này:
Đông tây ngũ bách trượng, nam bắc ngũ thập trượng, thượng khả dĩ toạ vạn
nhân, hạ khả dĩ kiến ngũ trượng kì.
东西五百丈, 南北五十丈, 上可以坐万人, 下可以建五丈旗.
(Đông tây 500 trượng, nam bắc
50 trượng, trên có thể chứa vạn người, dưới có thể dựng cột cờ cao 5 trượng.)
Cung A
Bàng hội tụ những ưu điểm của các kiến trúc cung điện các nơi trong cả nước,
quy mô lớn chưa từng có, khí thế hoành tráng. “Li cung biệt quán của nó khắp
núi khắp non, đường cho xe chạy nối thông nhau, cảnh quan tươi đẹp. Theo Hán thư – Giả Sơn truyện 汉书 - 贾山传:
Khởi Hàm Dương nhi tây chí Ung, li cung tam
bách, chung cổ duy trướng, bất di nhi cụ. Hựu vi A Bàng chi điện, điện cao sổ
thập nhận, đông tây ngũ lí, nam bắc thiên bộ, tụng xa la kị, tứ mã vụ trì, tinh
kì bất nạo, vi cung thất chi lệ kì vu thử.
起咸阳而西至雍, 离宫三百, 钟鼓帷帐, 不移而具. 又为阿房之殿, 殿高数十仞, 东西五里, 南北千步, 从车罗骑, 四马骛驰, 旌旗不挠, 为宫室之丽至于此.
(Khởi đầu từ Hàm Dương đến Ung
thành phía tây, xây dựng cung điện hơn 300 toà, trống chuông màn trướng bố trí
bên trong, không cần di dời mà chỗ nào cũng có. Lại xây cung A Bàng, điện cao mấy
chục nhận, đông tây 5 dặm, nam bắc nghìn bộ, bốn ngựa có thể chạy mà không hề bị
trở ngại, ngay cả cờ xí trên các xe cũng
không va chạm nhau, là cung thất cực huy hoàng tráng lệ.)
Thế
thì, toà cung điện này vì sao lấy tên là “阿房”
(A Bàng)? Ghi chép của các đời không nhất trí. Tra khảo phát hiện, chủ yếu có 3
quan điểm:
- Quan điểm thứ 1: cho rằng có tên gọi “A Bàng” là do cung chỉ tựa
vào Hàm Dương mà ra. Trong Sử kí – Tần
Thuỷ Hoàng bản kỉ chính nghĩa 史记 - 秦始皇本纪正义 dẫn
lời trong Quát địa chí 括地志:
Tần A Bàng cung diệc viết A Thành, tại Ung
Châu Trường An huyện tây bắc nhất thập tứ lí. Án cung tại Thượng Lâm uyển
trung, Ung Châu Quách thành tây nam diện, tức A Bàng thành đông nam diện dã.
秦阿房宫亦曰阿城, 在雍州长安县西北一十四里. 按宫在上林苑中, 雍州郭城西南面, 即阿房城东南面也.
(Cung A
Bàng nhà Tần cũng gọi là A Thành, tại phía tây bắc cách huyện Trường An ở Ung
Châu 14 dặm. Xét cung ở trong Thượng Lâm uyển, phía tây nam Quách thành của Ung
Châu, tức mặt đông nam thành A Bàng.)
Cho nên
Nhan Sư Cổ 颜师古 nói rằng:
A, cận dã, dĩ kì khứ Hàm Dương cận, thả hiệu
A Bàng.
阿, 近也, 以其去咸阳近, 且号阿房.
(A có
nghĩa là gần, vì cách Hàm Dương gần nên lấy hiệu là A Bàng)
- Quan điểm thứ 2: phân tích từ phong cách kiến trúc của cung A Bàng,
cho rằng, tên gọi 阿房 (A
Bàng) là căn cứ vào hình trạng “tứ a bàng quảng” 四阿房广 mà đặt tên. “阿” (a) ý cổ có nghĩa là “chỗ cong”, “chỗ cong của sân”.
Trong A Bàng cung phú 阿房宫赋 của Đỗ Mục 杜牧 nói cung này:
Ngũ bộ nhất lâu, thập bộ nhất các, lang yêu
mạn hồi, thiềm nha cao trác.
五步一楼, 十步一阁, 廊腰缦回, 檐牙高啄.
(Năm bộ
một lầu, mười bộ một gác, hành lang uốn cong uyển chuyển, mái hiên cong nhọn
vươn cao như mỏ chim)
Đó là thể
hiện đặc điểm “a” của cung A Bàng. Cho nên trong Sử kí – Tần Thuỷ Hoàng bản kỉ sách dẫn 史记 - 秦始皇本纪 索引giải thích tên
cung này, nói rằng:
Thử tùng kì hình mệnh danh, ngôn kì cung tứ
a bàng quảng dã.
此从其形命名, 言其宫四阿房广.
(Đây là
theo hình dạng của nó mà đặt tên, nói cung này bốn phía cung điện cong vươn
cao, phòng ốc to lớn)
- Quan điểm thứ 3: cho rằng tên gọi “阿房” (A Bàng) là do cung điện xây dựng trên gò lớn mà đặt
tên. Quan điểm này xuất phát từ Hán thư –
Giả Sơn truyện 汉书 - 贾山传, trong truyện
có chú thích rằng:
A giả, đại lăng dã, thủ danh A Bàng, kì ngôn
thị cao nhược vu a thượng vi bàng.
阿者, 大陵也, 取名阿房, 其言是高若于阿上为房.
(A là
gò lớn, lấy tên A Bàng, ý nói phòng lớn xây dựng trên gò lớn)
Ý nói
cung A Bàng nhân vì được xây dựng trên gò lớn nên có tên như thế. Khai quật khảo
cổ có sức chứng minh quan điểm này. Di chỉ cung A Bàng xưa tại thôn A Bàng 阿房cách ngoại ô thành phố Tây An 西安
khoảng 15000m. Di chỉ phát quật cho thấy, cung A Bàng năm đó toạ lạc trên gò có
địa thế cao, đến nay hãy còn nền móng cao lớn của toà cung điện ở đó. Ngoài ra,
gần phía nam thôn A Bàng còn lưu lại nền đài bằng đất nện của cung điện, chu vi
dài 31m, cao khoảng 20m, theo khảo chứng ở phía tây nam của thôn cũng còn có một
nền đài bằng đất nện cao lớn của di chỉ tiền điện của cung A Bàng, chiều đông
tây ước khoảng 1200m, chiều nam bắc khoảng từ 500m đến 600m, chỗ cao nhất khoảng
8m. Cung A Bàng chính là được xây dựng trên một số nền đất cao lớn này.
Ba quan
điểm trên đều xác thực chắc chắn, rất khó để phán đoán quan điểm nào đúng quan
điểm nào sai. Cho nên, bí ẩn về tên gọi của cung điện nổi tiếng từ ngàn xưa này
chỉ có thể đợi sự phát hiện thêm của người sau.
Chú của người
dịch
1- Về chữ 房 trong tên cung 阿房:
Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có 2 âm
“phòng” và “bàng”. Với âm “bàng” ghi rằng:
A bàng 阿房 tên cung điện
của nhà Tần.
(trang 223, nxb tp/ Hồ Chí
Minh, năm 1993)
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典:
- 房 bính âm fáng.
Đường vận 唐韻, Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 đều phiên thiết là PHÙ PHƯƠNG 符方, âm 防 (phòng).
- 房 bính âm páng.
Quảng vận 廣韻 phiên thiết là BỘ QUANG 步光
Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là BỒ QUANG 蒲光, đều âm 傍 (bàng). Trong Quảng
vận 廣韻 ghi rằng:
A Bàng, Tần cung danh
阿房, 秦宮名
(A Bàng là tên một cung nhà Tần)
(trang
362, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, năm 2002)
Theo https://zhidao.baidu.com/question/153522230.html có ghi:
Nãi doanh tác triều cung Vị nam Thượng Lâm
uyển trung. Tiên tác tiền điện 阿房. “Chính nghĩa”
房, bạch lang phản.
乃营作朝宫渭南上林苑中. 先作前殿阿房. 正义房,
白郎反.
(Bèn
xây dựng triều cung trong Thượng Lâm uyển phía nam sông Vị. Trước tiên xây tiền
điện阿房. Trong “Chính nghĩa” chữ 房
có phiên thiết là “bạch lang”)
阿房宫 có bính âm là [ē páng gōng]
Tổng hợp
từ những tư liệu trên, tên cung điện này tôi đọc là “A Bàng”.
Trong Cổ văn (tập 2) của dịch giả Hoàng Khôi, trong Đại cương Văn học sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê và trong Hán văn của Trần Trọng San ở bài "阿房宮賦" của Đỗ Mục 杜牧 đều phiên âm là “A Phòng cung phú”.
Huỳnh Chương Hưng
Quy
Nhơn 13/6/2019
Nguyên tác Trung văn
A BÀNG CUNG VỊ HÀ THỦ DANH “A BÀNG”
阿房宫为何取名 “阿房”
Trong quyển
TRUNG QUỐC VỊ GIẢI CHI MÊ
中国未解之谜
Tác giả: Hải Tử 海子
Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật