CHỮ “NGÔ LÀ VŨ KHÍ
BÀN VỀ CHỮ
“NGÔ
Đại từ 我 (ngã)
tại sao nữa bên phải là chữ 戈 (qua tức cái mác, một loại binh khí), nữa bên trái là
bộ 扌(thủ) thêm nét phẩy trên đầu, là loại kết cấu mà không
biết gọi tên là gì? Từ Hứa Thận 许慎 thời Đông Hán trở đi, người nghiên cứu về nó không ít,
nhưng trước sau đều không thể cáng đáng nỗi. Chữ 我vốn
là vũ khí, bên phải của nó là chữ 戈 , bên trái của nó là
vật trang sức trên cái 戈đó. Vật trang sức này
có thuyết cho là chữ 垂 (thuỳ), có thuyết cho là chữ 锯
(cứ). Có người căn cứ giáp cốt văn khảo chứng, cho rằng 我 vốn
là một loại vũ khí cán dài, loại vũ khí này trên đầu có “tam qua” 三戈 hoặc
“tứ qua” 四戈 (1). Vũ khí được dùng làm đại từ nhân xưng, thì đó là mượn
dùng. Ở chữ giả tá mượn làm đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, có một hiện tượng
đáng chú ý, đó là trong đại từ có không ít chữ được giả tá (mượn). Như 其 (kì) trong 其他 (kì tha), trong cổ
văn vốn mang nghĩa của chữ 箕 (ki
tức cái nia); và như đại từ không xác định là 某 (mỗ) trong 某人 (mỗ
nhân tức người nào đó), nó vốn mang nghĩa là táo chua, về sau mượn dùng làm chữ
某(mỗ).
Chữ 我 trong văn ngôn vừa biểu thị đơn số vừa biểu thị đa số,
không giống như chữ 我 (ngã)
và 我们 (ngã
môn) trong Hán ngữ hiện đại. Chỗ nào trong Hán ngữ hiện đại dùng我们 thì không thể dùng我 , chỗ nào dùng我 thì
không thể dùng我们. Nếu tự ý đổi 我 thành 我们, có khả năng là từ chối trách nhiệm, hoặc vì nguyên nhân khác. Cũng như vậy, nếu tự
ý đổi我们 thành我, cũng có khả năng là
tự khoe khoang, hoặc đoạt lấy thành quả tốt đẹp của người khác. Nhưng trong Hán
ngữ cổ, 我 không
phân đơn số đa số. 我 vừa có thể đại biểu cá nhân, cũng có thể đại biểu tập
thể (hoặc thay cho “我的” (của tôi), “我们的”
(của chúng tôi) ). Như Liễu Tông Nguyên 柳宗元 trong Chủng thụ Quách Thác Đà truyện 种树郭橐驼传 có viết:
Ngã tri chủng thụ nhi dĩ, quan lí, phi
ngô nghiệp dã. (*)
我知种树而已, 官理, 非吾业也
(Tôi chỉ biết trồng cây mà
thôi, làm quan trị dân không phải là chức nghiệp của tôi)
Chữ 我 ở
đây là đơn số, chỉ bản thân Thác Đà. Còn trong Tả truyện – Tào Quế luận chiến 左传 - 曹刿论战 có
câu:
Tề sư phạt ngã
齐师伐我
(Quân Tề công phạt chúng ta)
ở đây là nói nước Tề công phạt “ngã Lỗ quốc” tức công
phạt nước Lỗ chúng ta.
Từ đồng
nghĩa với 我, trong cổ văn rất nhiều. Như 吾 (ngô), 余 (dư),
予 (dư),
卬 (ngang), 朕 (trẫm) v.v... 我 (ngã) và 吾 (ngô) là từ đồng nghĩa, nếu trong cùng một câu, 吾 làm chủ ngữ, 我
thường làm tân ngữ. Như trong Tả truyện 左传 có câu:
Ngô trương ngã tam quân
吾张我三军
(Chúng ta khuếch trương thế lực quân đội chúng ta)
Và như
trong Mạnh Tử 孟子:
Ngô thiện dưỡng ngã hạo nhiên chi khí.
吾善养我浩然之气
(Ta khéo nuôi dưỡng khí hạo nhiên của mình)
Trong Trang Tử 庄子:
Kim giả, ngô táng ngã
今者, 吾丧我
(Nay, ta quên mất chính mình)
Ở tình
huống trong như câu như trên, vị trí của 吾,
我 không thể thay đổi.
卬 (ngang) cũng là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, nghĩa
như 我 (2). Trong Thi kinh
dùng tương đối nhiều. Thi – Bào hữu khổ
diệp 诗 - 匏有苦叶có câu:
Nhân thiệp ngang phủ
Ngang tu ngã hữu
人涉卬否
卬须我友
Ý là
người ta đi qua sông chỉ mình ta thì không, ta đang đợi bạn của ta.
Có người
nghiên cứu nói rằng, chữ卬thời cổ, tức là chữ 俺 (yêm)
mà người phương bắc ngày nay nói. 俺 chính là 我, như nói 俺奶奶 (yêm nãi nãi) tức là 我奶奶 (ngã nãi nãi, có nghĩa là bà nội của tôi).
Đại từ 朕 (trẫm)
vốn không phải dành riêng cho hoàng đế, người thường cũng có thể dùng 朕 thay
cho 我. Điều mà gọi là “quý tiện thông dụng”, nó đồng nghĩa
với chữ 我. Thi nhân Khuất Nguyên 屈原trong
Li tao kinh 离骚经 có viết:
Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung
朕皇考曰伯庸
(Phụ thân đã mất của ta tên là Bá Dung)
Ai trẫm thời chi bất đáng
哀朕时之不当
(Buồn than cho ta sinh chẳng gặp thời)
Những
chữ 朕 ở
đây đều chỉ bản thân Khuất Nguyên. Theo sự phân tích của Chương Thái Viêm 章太炎 trong
Tân phương ngôn 新方言, chữ 朕 tức
tục là chữ 偺
(cha) (3).
Đồng
nghĩa với 我 còn
có không ít đại từ biểu thị khiêm xưng, như 臣 (thần), 仆 (bộc),
愚 (ngu)
... Phụ nữ khiêm xưng có 奴 (nô), 妾 (thiếp) đều mang ý nghĩa đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất.
Chỉ có điều là từ 奴 và 妾 đã
ghi lại dấu ấn xã hội phong kiến sâu đậm.
Chú của
nguyên tác
1- Ngữ văn kiến
thiết 语文建设 86. kì 3, trang
56, Trần Vĩ Trạm 陈炜湛 Ngã toán thập ma hình tượng 我算什么形象.
2- Lục Tông Đạt 陆宗达 Huấn cổ giảng luận 训古讲论 trang 111, Bắc Kinh xuất bản xã.
3- Tiền Chung Thư 钱锺书 Quản chuỳ thiên 管锥篇 (nhất) trang 265, Trung Hoa thư cục.
Chú của người
dịch
*- Trong nguyên tác, ở câu này không có chữ “quan”官:
Ngã tri chủng thụ nhi dĩ, lí phi ngô nghiệp dã.
我知种树而已, 理非吾业也
Theo http://www.yuwenmi.com/shici/wenyanwen/590330.html
và các tư liệu khác trên mạng, đây là đoạn hỏi và đáp:
Vấn giả viết: “Dĩ tử chi đạo, di chi quan
lí, khả hồ?”
Đà viết: “Ngã tri chủng thụ nhi dĩ,
quan lí, phi ngô nghiệp dã ...”
问者曰: “以子之道, 移之官理, 可乎?”
驼曰: “我知种树而已, 官理, 非吾业也...”
(Có người
hỏi: “Đem phương pháp và kinh nghiệm trồng cây của ông dùng vào việc làm quan
trị dân, thì có thể được chăng?”
(Thác) Đà đáp: “Tôi chỉ biết
trồng cây mà thôi, làm quan trị dân không phải là chức nghiệp của tôi.”)
Tôi
theo tư liệu này viết lại như trên.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 24/01/2019
Nguyên tác Trung văn
NGÃ TỰ THỊ VŨ KHÍ
ĐÀM “NGÔ
我字是武器
谈 “我”
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã,
1998
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật