QUAN CHẾ TRUNG ƯƠNG
(kì 2)
Ngoài Cửu
khanh 九卿, còn có Trung uý 中尉nắm
giữ việc trị an ở kinh sư (về sau gọi là Chấp kim ngô 执金吾)
cùng với Tương tác Thiếu phủ 将作少府nắm giữ việc xây dựng
cung thất (về sau gọi là Tương tác đại tượng 将作大匠) v.v...
Các
khanh đều có thuộc quan, ở đây không liệt kê ra hết, chỉ nói rõ thêm thuộc quan
Đại phu 大夫 và
Lang 郎của Lang trung lệnh 郎中令 (Quang lộc huân
光禄勋) như sau:
Đời Hán
có Thái trung đại phu 太中大夫, Trung đại phu 中大夫 (Hán Vũ Đế đổi gọi là Quang lộc đại phu 光禄大夫). Đại phu “chưởng luận nghị” 掌论议(giữ
việc nghị bàn) “vô thường sự, duy chiếu mệnh sở sử” 无常事唯诏命所使 (không có việc cố định, chỉ được sai khiến khi có chiếu mệnh), có tính
chất tán quan 散官đời sau.
Lang 郎là từ thông xưng gọi quan thị vệ của hoàng đế, có Nghị
lang 议郎, Trung lang 中郎, Thị lang 侍郎, Lang trung 郎中. Nghị lang giữ việc
cố vấn ứng đối, tương đối đặc thù. Các lang khác đều “chưởng thủ môn hộ” 掌守门户 “xuất
sung xa kị” 出充车骑.
Ngoài
ra Hán Vũ Đế còn đặt ra Kì môn期门, Vũ lâm 羽林 làm
thuộc quan của Quang lộc huân. Kì môn là thị tùng khi Hán Vũ Đế vi hành (1);
Vũ lâm là quan túc vệ (2), đều là Lang, cho nên có tên gọi Kì môn
lang期门郎, Vũ lâm lang羽林郎.
Nói
thêm về việc gia quan 加官đời Hán, ở đây ngoài
quan chức đã có gia thêm quan chức.
Gia
quan đời Hán có Thị trung 侍中, Cấp sự trung 给事中, Chư lại 诸吏. Gia Thị trung thì có thể xuất nhập cung cấm, trở
thành thân tín của hoàng đế. Gia Cấp sự trung thì có thể nắm giữ việc cố vấn ứng
đối. Gia Chư lại thì có thể tiến hành giám sát và đàn hặc quan viên cung đình.
Đời sau, Thị trung trở thành thủ trưởng của Môn hạ sảnh, Cấp sự trung trở thành
thuộc quan của Môn hạ sảnh.
Gia
quan đời Hán còn có Trung thường thị 中常侍và Tán kị 散骑. Trung thường thị hầu hoàng đế ở cấm trung (thời Đông
Hán đổi dùng hoạn quan). Tán kị là kị tụng của hoàng đế, giữ việc “hiến khả thế
bĩ” 献可替否(dâng lời can ngăn, khuyến thiện sửa lỗi). Thời Tào
Nguỵ hợp xưng là Tán kị Thường thị 散骑常侍, cố vấn cho hoàng
đế đồng thời giữ việc can gián. Thời Nam Bắc triều, Tán kị Thường thị là trưởng
quan của Tập thư sảnh 集书省 (cơ quan thị tụng
cố vấn của hoàng đế), đời sau nhập vào Môn hạ sảnh.
Dưới
đây sẽ nói đến lục bộ.
Thượng
thư 尚书vốn là thuộc quan của Thiếu phủ少府 trong Cửu khanh, sau khi phát triển thành Thượng thư
đài 尚书台, sự vụ tăng nhiều lên, thế là chia tào 曹để làm việc, mỗi tào đặt 1 Thượng thư, đó là tiền thân
của các bộ ở trung ương sau này. Từ thời Đông Hán đến thời Nam Bắc triều, bộ
tào vẫn chưa có định chế, đời Tuỳ bắt đầu định ra “lục bộ” 六部 (6 bộ)
: Lại 吏, Dân 民, Lễ 礼, Binh 兵, Hình 刑, Công 公, thuộc về Thượng thư
sảnh. Đời Đường tị huý Thái Tông, đổi bộ Dân 民 thành bộ Hộ 户. Từ đó về sau các đời nối nhau, chế độ lục bộ được
xem là cơ cấu hành chính trung ương về cơ bản không thay đổi.
Chức
trách của lục bộ đại để như sau:
1- Lại bộ 吏部, nắm giữ việc bổ
nhiệm bãi miễn quan lại, thẩm tra sắp xếp chức tước, khảo sát thành tích, thăng
giáng.
2- Hộ bộ 户部, nắm giữ đất đai, hộ
khẩu, phú thuế, tài chính.
3- Lễ bộ 礼步, nắm giữ điển lễ,
khoa cử, trường học.
4- Binh bộ 兵部, nắm giữ quân chính
trong cả nước.
5- Hình bộ 刑部, nắm giữ hình pháp,
ngục tụng.
6- Công bộ 工部, nắm giữ các công
trình, kiến trúc, đồn điền, thuỷ lợi.
Thủ trưởng
các bộ gọi là Thượng thư 尚书, Phó thủ trưởng gọi
là Thị lang 侍郎 (3). Dưới bộ thiết lập ti, thủ trưởng của ti gọi là Lang
trung 郎中, Phó thủ trưởng gọi là Viên ngoại lang 员外郎. Thuộc quan có Đô sự 都事,
Chủ sự 主事.
Lục bộ
phỏng theo Lục quan trong Chu lễ 周礼, bảng đối chiếu
như sau:
Lục bộ Thượng
thư
六部尚书
|
“
“周礼” 六官
|
Lại bộ Thượng thư
吏部尚书
|
Thiên quan Đại tể (Trủng tể) (4)
天官大宰 (冢宰)
|
Hộ bộ Thượng thư
户部尚书
|
Địa quan Đại tư đồ
地官大司徒
|
Lễ bộ Thượng thư
礼部尚书
|
Xuân quan Đại tông bá
春官大宗伯
|
Binh bộ Thượng thư
兵部尚书
|
Hạ quan Đại tư mã
夏官大司马
|
Hình bộ Thượng thư
刑部尚书
|
Thu quan Đại tư khấu
秋官大司寇
|
Công bộ Thượng thư
工部尚书
|
Đông quan Đại tư không (5)
冬官大司空
|
Đời sau
lấy Lục quan trong Chu lễ gọi thay Lục
bộ Thượng thư, như Hộ bộ Thượng thư gọi là Đại tư đồ, Lễ bộ Thượng thư gọi là Đại
tông bá (6).
Lục bộ
thành lập, chức quyền của các khanh nhỏ lại, có khanh do bởi chức vụ nhập vào bộ
ti có liên quan, nên về sau bãi bỏ. (còn
tiếp)
Chú của
nguyên tác
1- Hán thư –
Bách quan công khanh biểu 汉书 - 百官公卿表chú dẫn lời của
Phục Kiền 服虔:
Dữ kì môn hạ dĩ vi hành, hậu toại dĩ vi
quan.
与期门下以微行, 后遂以微官.
(Hẹn
cùng môn hạ vi hành, sau bèn lấy làm chức quan)
Vương
Tiên Khiêm 王先谦nói rằng:
Kì chư điện môn, cố hữu Kì môn chi hiệu.
期诸殿门, 故有期门之号.
(Hẹn ở
điện môn, nên có hiệu là Kì môn)
2- Hán thư –
Bách quan công khanh biểu 汉书 - 百官公卿表 Nhan Sư Cổ 颜师古chú:
“Vũ Lâm diệc Túc vệ chi quan, ngôn kì như vũ
chi tật, như lâm chi đa dã.
羽林亦宿卫之官, 言其如羽之疾, 如林之多也.
(Vũ lâm
cũng là quan Túc vệ, ý nói nhanh như cánh chim, nhiều như rừng)
Một
thuyết khác cho rằng, vũ 羽là vây cánh của
vương.”
3- Thời Tuỳ Đường, mỗi bộ phận phân làm 4 ti, ti thứ 1
lấy nguyên tên của bản bộ, “tá kì trưởng nhi hành chính lệnh” 佐其长而行政令 (giúp
trưởng thi hành chính lệnh), 3 ti còn lại mỗi ti lấy chức vụ mình nắm giữ mà gọi
tên. Ví dụ Lại bộ thời Đường, ti thứ 1 vẫn xưng Lại bộ, 3 ti còn lại là Ti
phong 司封, Ti huân 司勋, Khảo công 考功. Đời sau bộ ti có sự điều chỉnh, danh xưng khác nhau.
4- Đỗ Hựu 杜佑 trong Thông điển 通典quyển 23 Chức
quan 职官5 có nói:
Nhược tham tường cổ kim, trưng khảo chức nhậm,
tắc Thiên quan đại tể đáng vi Thượng thư lệnh, phi Lại bộ chi nhậm. Kim Lại bộ
chi thuỷ, nghi xuất Hạ quan chi tư thổ.
若参详古今, 征考职任, 则天官大宰当为尚书令, 非吏部之任. 今吏部之始, 宜出夏官之司土.
(Nếu
tham khảo kĩ cổ kim, trưng khảo chức vụ đảm nhậm, thì Thiên quan đại tể phải là
Thượng thư lệnh, không phải chức nhậm của Lại bộ. Khởi đầu của Lại bộ ngày nay,
xuất phát từ Ti thổ của Hạ quan hợp hơn)
5- Chu lễ - Đông
quan – Tư không 周礼 - 冬官 - 司空 bị mất từ sớm. Về sau Khảo công kí 考工记 bổ sung vào, không đủ để xem là Đông quan – Tư không 冬官 - 司空.
6- Nhưng Lại bộ Thượng thư lại xưng là Trủng tể. Đời
Thanh Hộ bộ nắm giữ vận chuyển lương thực, thuế ruộng, cho nên Hộ bộ Thượng thư
là Đại tư nông.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/9/2018
Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã,
2012
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật