TỪ TIỀN “TẦN BÁN LƯỢNG” ĐẾN TIỀN NGŨ THÙ
Tần Thuỷ
Hoàng 秦始皇thống nhất Trung Quốc, không chỉ là một sự kiện lớn
trong lịch sử Trung Quốc, mà còn có ý nghĩa trọng yếu về phương diện văn hoá
hoá tệ của Trung Quốc. Tần Thuỷ Hoàng đã phế bỏ các loại hoá tệ thời kì Chiến
Quốc, ban hành rộng rãi một loại tiền tròn bán lượng lỗ vuông. Loại hoá tệ này
đã lưu hành hơn 2100 năm, có ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống xã hội.
Trước
khi Tần Thuỷ Hoàng diệt 6 nước, nước Tần đã lưu thông “bố tệ” 布币, về sau lại xuất hiện “hoàn tệ” 环币. Hoàn tệ của nước Tần khác với các nước khác, trên bề
mặt có đúc chữ “lượng” 两 (một số học giả cho
rằng, lượng ở thời Tần hợp với 16, 14 gam ngày nay) và “chu” 朱 (tức “thù” 铢. Thời Tần, 24 thù là
1 lượng). Đơn vị trọng lượng này, bắt đầu từ năm 336 trước công nguyên (Tần Huệ
Văn Vương 秦惠文王năm thứ 2), việc đúc hoá tệ tập trung vào vương thất,
cho nên trên bề mặt của hoá tệ không đúc địa danh nữa.
Để thống
nhất chế độ hoá tệ, Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh phế bỏ các loại hoá tệ địa phương được
đúc từ trước bao gồm cả bối tệ trong đó;
đồng thời quy định phân hoá tệ mới thành 2 hạng: thượng và hạ. chất liệu của
thượng tệ bằng vàng, đơn vị của nó là “dật” 镒
(20 lượng hoặc 24 lượng là 1 dật), chất liệu của hạ tệ bằng đồng, đơn vị là bán
lượng, gọi là “bán lượng tiền” 半两钱, người đời sau căn
cứ vào đó gọi nó là “Tần bán lượng” 秦半两. Thượng tệ dành
cho đế vương ban thưởng hoặc dùng vào đại ngạch, hạ tệ dùng trong dân gian
trong việc giao dịch tiểu ngạch.
Nhưng,
rốt cuộc Tần Thuỷ Hoàng thống nhất chế độ hoá tệ như thế nào, ví dụ nói, Tần
Thuỷ Hoàng thống nhất chủng loại và đơn vị hoá tệ, hay là cũng thống nhất luôn
quyền đúc hoá tệ, đến nay vẫn chưa tìm được tư liệu minh xác.
Theo lí
mà nói, dưới thể chế chính trị tập quyền lúc bấy giờ, việc đúc và phát hành hoá
tệ phải do nhà nước nắm giữ, nhưng nhìn từ bán lượng tiền được lưu lại, trọng
lượng của chúng dường như không giống nhau, loại nhẹ nhất chỉ có 6 gam, loại nặng
nhất vượt qua 20 gam, không như do quan gia đúc thống nhất. Còn như tỉ lệ đồng của
nó, dường như cũng không thống nhất. Có người đã hoá nghiệm 2 đồng “bán lượng
tiền”, hàm lượng đồng là 74,2% - 78,8%, kì dư là chì, thiếc. Xem ra, đương thời
dùng các loại hàm lượng nguyên đồng hoặc
đồ đồng hiện thành sau khi nấu chảy đúc thành.
Đối với
tình hình này, một số học giả phân tích rằng, tuy Tần Thuỷ Hoàng ban bố tiêu
chuẩn đo lường thống nhất, nhưng vào điều kiện lúc bấy giờ, rất khó quán triệt
ngay lập tức. Hơn nữa, quan niệm giá trị của người thời đó vẫn chưa phát đạt mấy,
người đúc tiền đối với trọng lượng và tỉ lệ đồng của tiền không coi trọng lắm,
cho nên vấn đề đối với tiêu chuẩn đo lường không nhất trí, đồng thời không cho
là một việc quan trọng.
Một đặc
điểm khác của “Tần bán lượng”, đó là mép của tiền không có đường gờ bảo vệ, lại
thêm chữ trên bề mặt nổi cao, rất dễ bị mòn. Về điểm này nó giống với tiền tệ cổ
Hi Lạp. Âu Châu sau 1000 năm mới biết tiền tệ kim loại cần dùng đồ án có đường gờ để bảo vệ đồ án bên trên của
hoá tệ, mà đao tệ thời Chiến Quốc của Trung Quốc đã có thêm đường gờ. Từ đó đến thời Tây Hán đúc
tiền ngũ thù trở đi, đường gờ trở thành một bộ phận không thể thiếu của hoá tệ
Trung Quốc.
Mặc dù
tiền “Tần bán lượng” về phương diện trọng lượng, hàm lượng tỉ lệ không thống
nhất, nhưng lại có một điểm thống nhất, đó là lỗ ở giữa đồng tiền đều là hình
vuông.
Trước
đây, lỗ ở giữa đồng tiền mặc dù là nghĩ tị tiền 蚁鼻钱,
đao tệ 刀币và hoàn tệ 环币, về cơ bản đều là
tròn, “Tần bán lượng” lại thống nhất đổi sang thành vuông, đây là sự biến đổi lớn
về hình chế đồng tiền tròn của Trung Quốc. Bố tệ và hoàn tệ mà nước Tần dùng
trước đó, lỗ cũng hình tròn, tại sao Tần Thuỷ Hoàng lại đổi sang vuông?
Có một
cách giải thích: người xưa mang hoá tệ theo bên người, đem nó xỏ vào một khúc gỗ
vuông, lỗ vuông có thể tránh được đồng tiền chuyển động va chạm khiến bị mòn.
Cách giải thích này nhiều người chưa hài lòng. Bởi người thời cổ đa phần dùng sợi
dây để xâu tiền lại, đồng thời nhân vì giá trị của nó không lớn, nên đối với việc
đồng tiền bị mòn cũng không quan tâm lắm. Còn có một cách giải thích khác: thời
cổ có một loại vũ trụ quan, cho rằng trời tròn đất vuông, đồng tiền bên ngoài
là tròn , bên trong là vuông, có thể tượng trưng trời tròn đất vuông. Cách nói
này có lí nhất định.
Nhưng
cách nói tương đối viên mãn, đó là đồng tiền với lỗ vuông có lợi cho việc chế tạo
gia công. Phương pháp đúc tiền “Tần bán lượng” và đồng tiền trước đó là như
nhau, cũng là dùng đất sét mịn làm khuôn (tức mô hình bằng đất), đem đồng đã
nung chảy rót vào, khi nguội tháo khuôn ra có được đồng tiền. Lúc bầy giờ, đường
viền của đồng tiền luôn dính chút phần thừa, hình thành khi rót đồng, cần phải
bẻ gãy bỏ đi. Nếu lỗ là hình vuông, khi rót đồng chỉ cần gắn vào giữa một khúc
cây hình vuông thì nó sẽ không chuyển động; sau khi lấy ra gia công thêm, nó
cũng không chuyển động, công việc đương nhiên là thuận tiện hơn rất nhiều.
Tuy nói
trình độ kĩ thuật đúc tiền “Tần bán lượng” còn thấp, tiền tạo ra không được
tinh mĩ, trọng lượng thực tế cũng không nhất trí, nhưng rốt cuộc lần đầu tiên nó đã đại thống nhất chủng loại và đơn vị hoá tệ của Trung Quốc. Dạng tiền ngoài
tròn trong vuông này được dùng mãi cho đến thời Tuyên Thống 宣统 – vị
hoàng đế cuối cùng của triều Thanh mới tuyên cáo kết thúc.
Thời
gian thống trị của triều Tần rất ngắn, chỉ được 15 năm. Về sau Lưu Bang 刘邦diệt triều Tần lên làm hoàng đế, trở thành người sáng
lập triều Hán. Thế là, văn hoá hoá tệ Trung Quốc lại sang qua một chương mới. (còn tiếp)
Phụ lục của người dịch
Bố tệ thời Chiến Quốc - phương túc bố
Bố tệ thời Chiến Quốc - tiêm túc bố
Đao tệ nước Tề
Hoàn tiền thời Chiến Quốc
Tần bán lượng
(Ảnh tư liệu trên mạng)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/6/2018
Nguyên tác Trung văn
TÙNG “TẦN BÁN LƯỢNG” ĐÁO NGŨ THÙ TIỀN
从 “秦半两”到五铢钱
Trong quyển
VĂN HOÁ NGŨ THIÊN NIÊN
Biên soạn: Vũ Nhân 羽人
Thiếu niên nhi đồng xuất bản xã (không rõ năm xuất bản)
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật