LỄ TỤC
(kì 1)
Lễ tục là kiến trúc thượng tầng của xã hội,
nó tương thích với cơ sở kinh tế của xã hội. Xã hội nô lệ có lễ tục của xã hội
nô lệ, xã hội phong kiến có lễ tục của xã hội phong kiến. Trong xã hội cổ đại,
lễ tục mà giai cấp thống trị đề xướng là loại lễ tục nhằm để duy trì và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Nhìn từ hiện nay, nhiều loại lễ tục phức tạp
không hợp lí và lễ giáo ăn thịt người, đương thời đều là để củng cố sự thống trị
của giai cấp thống trị. Ở đề mục này, chúng tôi không thể thuật lại toàn bộ lễ
tục thượng cổ, chỉ có thể nói qua vài phương diện trọng yếu.
GIAI CẤP, GIAI TẦNG
Truyền
thuyết Nghiêu Thuấn 尧舜thiện nhượng phù hợp với giai đoạn chế độ công xã
nguyên thuỷ; Hạ Vũ 夏禹không truyền ngôi cho người hiền mà truyền cho con, có
thể thấy chế độ công xã nguyên thuỷ đã tan rã. Đời Hạ đã đạt đến chế độ nô lệ
chưa, vẫn còn chưa rõ. Nhưng đến đời Ân, có thể đoán định một cách xác thực là
xã hội nô lệ.
Theo kết
luận chung của các nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại, những “chúng” 众 “hề”
奚 “bộc”
仆 “thần”
臣 “thiếp” 妾 mà lúc ban đầu gọi đều là nô lệ. Thần là nam nô lệ,
thiếp là nữ nô lệ. Xã hội đầu đời Chu còn tồn tại một số lượng lớn nô lệ, Chu thiên tử thường đem nô lệ ban thưởng cho các đại thần
của mình. Với nô lệ, có nô lệ lao động trong nhà, nhưng lao động chủ yếu của họ
vẫn là sản xuất nông nghiệp. Có người nói rằng, câu:
Diệc phục nhĩ canh
Thập thiên duy ngẫu
亦服尔耕
十千维耦
(Mọi người cùng nhau đến làm ruộng
Mười ngàn người thành cặp cùng cày)
trong Thi kinh –
Chu tụng – Y hi 诗经 - 周颂 - 噫嘻là chỉ hai vạn
nô lệ đang làm ruộng. Còn câu:
Thần thiếp bô đào
臣妾逋逃
(Nô lệ bỏ trốn)
trong Thượng thư
– Mục thệ 尚书 - 牧誓là chỉ nô lệ bỏ trốn.
Nô lệ đời
Chu còn bị xem như trâu ngựa có thể đem trao đổi
mua bán trên thị trường. Trong Chu lễ - Địa
quan – Chất nhân 周礼 - 地官 - 质人có câu:
Chất nhân chưởng thành thị chi hoá hối
nhân dân ngưu mã binh khí trân dị.
质人掌成市之货贿, 人民, 牛马, 兵器珍异.
(Chất nhân nắm giữ việc định
giá cả các loại hoá vật trên thị trường như nô tì, trâu ngựa, binh khí cùng các
đồ vật quý hiếm.)
Trịnh Huyền 郑玄chú rằng:
Nhân dân, nô tì dã.
人民,
奴婢也
(Nhân dân là nô tì)
Sau khi
trao đổi mua bán, đính lập hợp đồng, loại hợp đồng này gọi là “chất tề” 质剂. Trịnh Huyền bảo rằng: hợp đồng nô tì trâu ngựa gọi
là “chất” 质, hợp đồng binh khí cùng các đồ vật quý hiếm gọi là “tề”剂.
Nô lệ
còn có thể bị giết như súc vật, nó biểu hiện trong chế độ tuẫn táng thời thượng
cổ. Trong Mặc Tử - Tiết táng 墨子 - 节葬下 hạ có ghi:
Thiên tử sát tuẫn, chúng giả sổ bách, quả giả
sổ thập; tướng quân đại phu sát tuẫn, chúng giả sổ thập, quả giả sổ nhân.
天子杀殉, 众者数百, 寡者数十; 将军大夫杀殉, 众者数十, 寡者数人.
(Giết
nô lệ để tuẫn táng theo thiên tử, nhiều thì đến mấy trăm người, ít thì mấy chục
người; giết nô lệ để tuẫn táng theo tướng quân đại phu, nhiều thì mấy chục người,
ít thì mấy người.)
Ở đời
Ân, những lời này hoàn toàn hợp với sự thực. Đến đời Chu ,
tuy việc này có hơi suy (điều này không phải do nhân từ, mà là do sức người
đáng quý), nhưng ở một số quốc độ vẫn còn thịnh hành. Ví dụ như nước Tần, theo Sử kí – Tần bản kỉ 史记 - 秦本纪, khi táng Tần Vũ Công 秦武公,
người phải chết theo là 66 người; khi táng Tần Mục Công 秦穆公, người phải chết theo là 177 người. Cũng theo Sử kí – Tần Thuỷ Hoàng bản kỉ 史记 - 秦始皇本纪, khi táng Tần Thuỷ Hoàng, Tần Nhị Thế đã lệnh cho hậu
cung (các phi tần), người nào không có con nhất luật đều bị “tùng tử”, “số người
chết rất đông”, lại thêm nhốt cả những người thợ trong lăng mộ. Hành động dâm
uy này của giai cấp thống trị, đến nay vẫn còn khiến mọi người căm phẫn.
Nô lệ
và chủ nô lệ là hai giai cấp đối kháng nhau, chủ nô đời Thương là quý tộc, tổng
xưng là “bách tính” 百姓 (1), Thương vương là đại biểu tối cao của quý tộc, tự
xưng là “dư nhất nhân” 余一人 (2). Trong
Luận ngữ - Nghiêu viết 论语 - 尧曰 dẫn lời trong Thượng
thư – Tần thệ 尚书 - 秦誓:
Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân
百姓有过, 在予一人
(Bách tính có lỗi là tại “dư nhất nhân”)
Có thể thấy đầu đời Chu
vẫn còn xưng hô như thế. Về sau bách tính thành từ đồng nghĩa với nhân dân. Thời
cổ, dân gọi là “lê dân” 黎民, nước Tần thì gọi
dân là “kiềm thủ” 黔首.
Đời
Thương, việc kế thừa vương vị là “huynh chung đệ cập” 兄终弟及(anh mất đến em). Vương vị đời Chu do
đích trưởng tử thừa tập, những người con khác được phong làm chư hầu (cũng có
những công thần khác họ được phong chư hầu). Quân vị chư hầu do đích trưởng tử
kế thừa, những người con khác được phong làm khanh đại phu. Chư
hầu thụ phong quốc từ thiên tử, khanh đại phu nhận thái ấp từ chư hầu. Dưới
khanh đại phu là “sĩ” 士 (đại thể là tông tộc của đại phu). Sĩ nhận lộc điền từ khanh đại phu. Chu thiên tử có thiên hạ 天 下, chư hầu có quốc 国,
khanh đại phu có gia 家. Gia là khu vực thống
trị của khanh đại phu, người đảm nhậm quan chức của gia thông thường là sĩ,
xưng là “gia thần” 家臣. Học trò của Khổng Tử là Nhiễm Hữu 冉有, Quý Lộ 季路 từng đảm nhậm qua
gia thần của Quý Khang Tử 季康子.
Trong Tả truyện – Chiêu Công thất niên 左传 - 昭公七年có ghi:
Vương thần công, công thần đại phu, đại
phu thần sĩ.
王臣公, 公臣大夫, 大夫臣士.
(Bề tôi của vương là công, bề tôi của công là đại phu,
bề tôi của đại phu là sĩ)
Như vậy đã hình thành giai tầng các cấp của nội bộ
giai cấp thống trị. Trước thời Xuân Thu, sĩ là võ sĩ, có nghĩa vụ “chấp can qua
dĩ vệ xã tắc” 执干戈以卫社稷(cầm khiêng cầm giáo để bảo vệ xã tắc); sau thời Xuân
Thu, sĩ là văn sĩ, sĩ dần trở thành thông xưng chỉ phần tử tri thức của giai cấp
thống trị.
Dưới sĩ
là “thứ nhân” 庶人, cũng gọi là “thứ dân” 庶民.
Thời Tây Chu thứ nhân tuy vẫn là đối tượng dùng để phong tặng, nhưng thân phận
thứ nhân cao hơn nô lệ, về sau thứ dân dần trở thành nông dân cá thể. Trong Tuân Tử - Vương chế 荀子 - 王制 có ghi:
Quân giả, chu dã; thứ nhân giả, thuỷ dã. Thuỷ
tắc tái chu, thuỷ tắc phúc chu.
君者, 舟也; 庶人者, 水也. 水则载舟. 水则覆舟.
(Quân
là thuyền, thứ dân là nước. Nước thì chở thuyền, nhưng nước cũng lật thuyền)
Có thể thấy trên lưng của thứ nhân trực tiếp quan hệ đến
sự an nguy của giai cấp thống trị thượng tầng.
Quân tử
và tiểu nhân là hai khái niệm đối lập nhau. Lúc ban đầu quân tử là từ thông
xưng gọi giai cấp thống trị quý tộc, còn tiểu nhân là từ thông xưng gọi giai cấp
bị thống trị, về sau lấy có đức và không có đức để khu biệt quân tử với tiểu
nhân. Thiên kiến giai cấp của giai cấp thống trị ảnh hưởng đến sự phát triển của
nghĩa từ. (còn tiếp)
Chú của
nguyên tác
1- Bách tính 百姓: kim văn viết
là 百生. Về sau người Chu gọi
quý tộc Thương là “Ân đa sĩ” 殷多士.
2- Dư nhất nhân
余一人 được thấy trong giáp cốt văn, trong cổ thư viết là 予一人.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 01/6/2018
Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã,
2012
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật