TIÊN XUÂN
“Lập
xuân” 立春tục gọi là “đả xuân” 打春,
là nguyệt tiết của tháng Giêng theo lịch nhà Hạ, có lúc cũng ở vào tháng Chạp,
ước khoảng ngày 4 tháng 2 dương lịch. Theo cách tính truyền thống, sau tiết Đại
hàn 15 ngày sao Đẩu chỉ đúng vào hướng đông bắc là Lập xuân, khí ấm bốc lên,
mùa xuân bắt đầu.
Lập
xuân là khởi đầu và kết thúc của 4 mùa, đánh dấu sự kết thúc của mùa đông và sự
khởi đầu của mùa xuân, cho nên thời cổ cho rằng nó là một lễ tiết quan trọng. Tại
Trung Quốc, sớm từ đời Chu đã có phong tục
“nghinh xuân” “tiếp xuân”.
Theo Lễ kí – Nguyệt lệnh 礼记 - 月令có ghi:
周天子以立春之日亲率公卿诸侯大夫迎春于东郊
(Ngày Lập
xuân Chu thiên tử đích thân dẫn công khanh chư
hầu đại phu ra phía đông ngoại thành cử hành lễ Nghinh xuân)
Trong Hán thư – Giao tự kí 汉书 - 郊祀记có ghi:
Nghinh xuân tế Thanh Đế, Câu Mang, bách quan
y giai thanh, quận quốc huyện quan, hạ chí lệnh sử, phục thanh trách.
迎春祭青帝, 勾芒, 百官衣皆青, 郡国县官, 下至令史, 服青帻.
(Lễ Nghinh xuân tế Thanh Đế, Câu Mang, bách quan y phục
đều xanh, quận quốc huyện quan xuống đến lệnh sử đều vấn khăn xanh)
Đến
nay, đại bộ phận vùng Sơn Đông 山东vẫn còn lưu hành
phong khí này. Ngày Lập xuân, nam nữ già trẻ đều ra hoạt động ngoài đồng gọi là
“nghinh xuân” “tiếp xuân”. Vùng Đức Châu 德州,
mọi người kết bầy ra khỏi thôn đi về hướng
đông, không cần biết xa gần, chỉ cần gặp được người mặc áo đỏ, đội mũ đỏ,
choàng khăn đỏ hoặc xách túi đỏ, coi như là “nghinh xuân”.
“Lập
xuân” còn gọi là “đả xuân”, khẳng định nó có một lai lịch đặc thù.
Nguyên
là, thời xưa mọi người ngoài hoạt động “nghinh xuân” ra, còn lưu hành “đả xuân”
打春 hoặc “tiên xuân” 鞭春,
cũng chính là đánh vào “xuân ngưu” 春牛bằng đất. Tập tục
này cũng có lịch sử lâu dài. Cách làm là đem một con trâu làm bằng đất ra (thổ
ngưu 土牛), người ta cầm một cây roi màu gọi là “thái trượng” 彩杖để xua nó đi. Hàm nghĩa là mọi người nên cần cù cày cấy
(cũng có thuyết cho là dùng để đưa tiễn khí lạnh). Nếu Lập xuân gần ngày 15
tháng Chạp, người cầm cây roi đánh trâu sẽ ở phía trước trâu, biểu thị việc cày
cấy năm đó phải sớm một chút. Nếu Lập xuân gần ngày 15 tháng Giêng năm sau, người
cầm roi sẽ ở phía sau trâu, biểu thị việc cày cấy năm đó thích hợp muộn một
chút. Còn nếu Lập xuân ở vào trước hoặc sau mồng 1 tháng Giêng, đương nhiên vị
trí của người cầm roi phải ở giữa, thời gian cày cấy nông nghiệp đương nhiên
cũng phải thích hợp ở giữa. Theo ghi chép, thời kì tiết Thanh minh, bên ngoài Đông
Trực môn 东直门 của Bắc Kinh thiết lập “xuân trường” 春场, tại nơi đó đã chuẩn bị tơ lụa làm thành “Mang
thần đình” 芒神亭 và “thổ ngưu đài” 土牛台. Trước Lập xuân một ngày, quan viên phụ trách kinh đô
sẽ đưa quan viên lớn nhỏ đến xuân trường nghinh xuân. Các quan phải mặc quan phục
màu đỏ, cài hoa trên đầu, dùng cờ xí nghi trượng mở đường. Cả đoạn đường có đội
nhạc thổi kèn đánh trống. Đầu tiên đưa tượng Thần Câu Mang và thổ ngưu rước đến
“thái bằng” 彩棚 (lều rạp được trang trí màu sắc) mà quan phủ đã chuẩn bị. Ngày hôm sau Lập xuân, các
quan viên sai học trò hoặc sai dịch khiêng Mang thần đình và thổ ngưu đài đến
hoàng cung chúc mừng hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng thái tử. Trong quyển Tế Nam phủ chí 济南府志 biên soạn năm
1691 có nói:
Trước ngày Lập xuân, quan phủ dẫn sĩ dân,
chuẩn bị xuân ngưu, Mang thần, nghinh đón ở đông giao. Dọn “ngũ tân bàn” 五辛盘(2), tục gọi là “xuân bàn” 春盘, “ẩm xuân tửu” 饮春酒, “trâm xuân
hoa” 簪春花.
Dân làng, các hộ buôn bán diễn kịch
ngư tiều canh độc .... Ngày Lập xuân, quan lại đều chuẩn bị roi màu, làm 3 con
trâu đất, gọi đó là ‘tiên xuân’ hàm ý khuyến khích nông nghiệp.
Không
chỉ phủ quan như thế, từ tư liệu lịch sử, tập tục nghinh xuân của triều Tống,
triều Minh và triều Thanh, hoạt động “tiên xuân” cực kì náo nhiệt. Kinh thành
như thế, các nơi trong cả nước cũng như thế. Từ đó có thể thấy, trong xã hội
nông nghiệp, bất luận là quan phương hay dân gian, bất luận là đại thần triều
đình hay bách tính bình dân, đều tham gia hoạt động tiên xuân này, hi vọng mọi
người cần cù, sớm thu hoạch được mùa màng.
Hiện tại,
tập tục này ở tuyệt đại bộ phận khu vực đã tuyệt tích, có một vài địa phương
vào ngày mồng 3 tháng Giêng cử hành nghi thức, mang nông cụ, đánh trâu đến cánh
đồng đầu thôn làm lễ cúng, biểu thị từ đó có thể xuống đồng canh tác.
Chú của người
dịch
1- Theo Lễ kí dịch
giải 禮記譯解 quyển thượng do
Vương Văn Cẩm 王文錦 dịch giải,
câu này là:
Lập xuân chi nhật, thiên tử thân suất tam
công, cửu khanh, chư hầu, đại phu dĩ Nghinh xuân ư đông giao.
立春之日, 天子親帥三公, 九卿, 諸侯, 大夫以迎春於東郊.
(Bắc
Kinh - Trung Hoa thư cục, 2007)
2- Ngũ tân bàn 五辛盘
Ngũ tân
bàn 五辛盘còn gọi là “tân bàn” 辛盘
“xuân bàn” 春盘, tức trong mâm có 5 món rau mang vị cay, dùng làm thức
ăn nguội.
Theo Phong thổ kí 风土记 đời
Tấn có nói:
Nguyên
đán dọn ra ngũ tân bàn. Dùng ngũ tân để cho khí của 5 tạng phát ra. Ngũ tân tức
hành, tỏi, hẹ, cải cay, rau thơm.
Chữ
“tân” 辛 (cay) hài âm với chữ “tân” 新 (mới), hàm ý của
người xưa cũng mong muốn sự việc được mới
mẻ.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 04/02/2018
Lập xuân 19
tháng Chạp năm Đinh Dậu
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật