浪淘沙
把酒祝东风 (1)
且共从容 (2)
垂杨紫陌洛城东 (3)
总是当时携手处
游遍芳丛 (4)
聚散苦匆匆
此恨无穷
今年花胜去年红
可惜明年花更好
知与谁同
(欧阳修)
LÃNG ĐÀO SA
Bả tửu chúc đông
phong (1)
Thả cộng thung
dung (2)
Thuỳ dương tử mạch
Lạc thành đông (3)
Tổng thị đương thời
huề thủ xứ
Du biến phương
tùng (4)
Tụ tán khổ thông
thông
Thử hận vô cùng
Kim niên hoa thắng
khứ niên hồng
Khả tích minh niên
hoa cánh hảo
Tri dữ thuỳ đồng?
(Âu
Dương Tu)
Chú
thích
1- Bả tửu 把酒: tay bưng li rượu. Mời rượu.
2- Thung dung 从容: chỉ thời gian chậm rãi, không
gấp
3- Tử mạch 紫陌: chỉ con đường vùng ngoài kinh
thành. Lạc Dương từng là kinh đô ở thời Đông Chu ,
Đông Hán, tương truyền thời đó dùng đất có sắc đỏ để đắp đường. Nhưng đô thành
của Bắc Tống là Khai Phong, Lạc Dương chỉ là bồi đô, nơi đây được mượn để đặc
chỉ vùng ngoại ô Lạc Dương.
Lạc thành 洛城: tức Lạc Dương.
4- Phương tùng 芳丛: tức “hoa tùng” 花丛 chỉ những khóm hoa.
Dịch
ý
LÃNG ĐÀO SA
Nâng li rượu mời gió xuân
Chớ vội vàng ra đi, hãy tạm lưu
lại trong chốc lát.
Đường ngoại ô phía đông Lạc
Dương, hàng dương liễu xanh xanh
Từng là nơi cùng bạn bè nắm tay dạo
bước.
Dạo khắp các khóm hoa.
Đời người gặp nhau rồi chia tay
luôn vội vã,
Buồn hận vô cùng.
Hoa năm nay nở đẹp hơn năm
ngoái,
Sang năm hoa sẽ nở đẹp hơn, đáng
tiếc không biết ai sẽ cùng thưởng thức?
Điểm
bình
Tác
giả cùng bạn nhân ngày xuân trở lại chơi vùng ngoại ô phía đông Lạc Dương cảm xúc
mà làm ra bài từ này, về thời gian đề cập cả năm ngoái năm nay và năm tới.
Kim niên hoa thắng
khứ niên hồng,
Khả tích minh niên
hoa cánh hảo
Đem hoa của cả 3 năm lại so
sánh, thưởng hoa mà chứa đựng tình li biệt, mượn để ví nhân sinh ngắn ngủi tụ
tán vô thường, đây là điểm tuyệt diệu trong bài từ. Đương nhiên, “hoa năm nay nở
đẹp hơn năm ngoái” chỉ là mượn ví tâm tình vui vẻ lúc gặp nhau với bạn, chứ
không phải hoa của “năm nay” đẹp hơn “năm ngoái”, nhưng do bởi dùng cảnh vui với
tình buồn, khiến ý của bài từ càng sâu hơn, cảm tình càng thân thiết hơn.
Chú
của người dịch
Âu
Dương Tu 欧阳修 (1007 – 1072): tự Vĩnh Thúc 永叔, hiệu Tuý Ông 醉翁, về già có hiệu là Lục Nhất Cư
Sĩ 六一居士,
người Lư Lăng 庐陵
(nay là Cát An 吉安
Giang Tây 江西).
Đậu Tiến sĩ năm Thiên Thánh 天圣 thứ 8 đời Tống Nhân Tông (năm 1030). Từng nhậm chức gián
quan, sau làm đến các chức Hàn lâm học sĩ, Xu mật phó sứ, Tham tri chính sự.
Lúc mất có tên thuỵ là Văn Trung 文中. Ông là lãnh tụ của phong trào cách tân thơ văn thời Bắc Tống,
và là một trong Đường Tống bát đại gia, thơ và từ của ông đều đạt thành tựu
cao. Ông từng cùng với Tống Kì 宋祁 tu sửa bộ Tân Đường
thư 新唐书, riêng mình ông soạn bộ Tân ngũ đại sử 新五代史. Tập từ của ông có Lục
Nhất từ 六一词,
Cận thể nhạc phủ 近体乐府,
Tuý Ông ngâm thú ngoại biên 醉翁吟趣外编, tổng cộng khoảng hơn 200 bài.
(Nguồn Tống từ tam bách
thủ 宋词三百首, Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民 biên soạn, Lưu Văn Lan 刘文兰 chú dịch. Sùng văn thư cục, 2003, trang 24)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 03/02/2018
Nguồn
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ
TỪ ĐIỂN
宋词三百首辞典
Biên soạn: Lâm Thân
Thanh 林申清
Hán ngữ đại từ điển
xuất bản xã, 1999.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật