踏莎行
小径红稀 (1)
芳郊绿遍
高台树色阴阴见 (2)
春风不解禁杨花
蒙蒙 (*) 乱扑行人面 (3)
翠叶藏莺
珠帘隔燕
炉香静逐游丝转 (4)
一场愁梦酒醒时
斜阳却照深深院
(晏殊)
ĐẠP SA HÀNH
Tiểu kính hồng hi (1)
Phương giao lục biến
Cao đài thụ sắc âm
âm hiện (2)
Xuân phong bất giải
cấm dương hoa
Mông mông (*)
loạn phốc hành nhân diện (3)
Thuý diệp tàng
oanh
Châu liêm cách yến
Lô hương tĩnh trục
du ti chuyển (4)
Nhất trường sầu mộng
tửu tinh thời
Tà dương khước chiếu
thâm thâm viện
(Án Thù)
Chú
thích
1- Hồng hi 红稀: hoa thưa thớt
2- Âm âm hiện 阴阴见: hiện ra thấp thoáng
3- Mông mông 蒙蒙: nguyên dùng để chỉ mưa nhỏ, ở
đây hình dung hoa dương bay.
4- Du ti 游丝: hình dung làn khói thơm vây
quanh như tơ
Dịch
ý
ĐẠP SA HÀNH
Hai bên con đường nhỏ hoa thưa
thớt
Trên cánh đồng ngoại ô, khắp nơi
cỏ đã xanh mướt như tơ
Nhìn xa xa, lầu gác đài cao thấp
thoáng trong rừng cây rậm rạp
Gió xuân chẳng biết làm sao ngăn
hoa dương lại
Để hoa như những hạt mưa, nhẹ
bay đến mặt người
Chim oanh ẩn mình trong đám lá
xanh
Chim én cách nơi rèm châu
Làn khói thơm nơi lò hương lặng
lẽ nối nhau chuyển động
Ta mượn rượu giải sầu, lúc tỉnh
dậy
Ánh nắng chiều đã chiếu vào sân.
Điểm
bình
Bài
từ này chủ yếu miêu tả cảnh tượng cuối xuân đầu hạ, đồng thời bộc lộ nỗi sầu nhẹ
nhàng đối với thời gian trôi qua. Đoạn trên là viễn cảnh cận cảnh đan xen nhau,
nhất động nhất tĩnh hỗ tương nhau. “Cao đài thụ sắc” là viễn cảnh, là tĩnh vật;
“dương hoa phốc diện” là cận cảnh, là động thái. Càng hay là, gió xuân thổi bay
hoa dương vốn là hiện tượng thường thấy lúc cuối xuân, nhưng một khi qua tay từ
nhân điểm hoá, trở thành diệu cú. Đoạn dưới tả cận cảnh, dùng thủ pháp ngụ
thanh nơi ý, lấy động tả tĩnh. “Oanh tàng” “cách yến” vốn không cách nào nhìn
thấy, nhưng thông qua tiếng hót mà cảm nhận chúng đang tồn tại, đây chính là
thính giác câu thông thị giác. “Lô hương tĩnh trục du ti chuyển”, tuy là miêu tả
động thái, nhưng lại làm nổi bật sự yên tĩnh trong gian phòng. Câu cuối lấy cảnh
kết tình, không vào thực tự nhưng dư vị vô cùng.
Chú
của người dịch
*- Trong Tống từ
giám thưởng từ điển 宋词鉴赏辞典, 2 chữ “mông” ở đây được viết là 濛濛có bộ 氵
Án
Thù (991- 1055): tự
Đồng Thúc 同叔,
người Lâm Châu 临州Phủ
Châu 抚州
(nay là Phủ Châu抚州
Giang Tây 江西).
Năm Cảnh Đức 景德
thứ 2 (1005) được
triệu đi thi với tư cách thần đồng, được ban Đồng Tiến sĩ xuất thân. Thời Nhân
Tông, làm quan đến chức Đồng trung thư môn hạ bình chương sự kiêm Xu mật sứ. Danh
thần Phạm Trọng Yêm 范仲淹, Phú Bật 富弼, Âu Dương Tu 欧阳修 và từ nhân Trương Tiên 张仙 đương thời đều theo học với ông.
Khi mất, Án Thù có tên thuỵ là Nguyên Hiến 元献, người đời gọi ông là Án Nguyên
Hiến 晏元献.
Thơ của ông thuộc “Tây Côn thể” 西昆体, phong cách từ thừa tập Phùng Diên Tị 冯延巳thời Ngũ Đại, nhàn nhã tình tứ,
ngôn ngữ tươi đẹp, âm vận hài hoà.
Tập
Châu ngọc từ 珠玉词 của ông hiện tồn 136
bài từ.
Theo Tống từ giám thưởng từ điển 宋词鉴赏辞典 quyển hạ,
Biên soạn:
nhiều tác giả, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2003)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 13/01/2018
Nguồn
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ
TỪ ĐIỂN
宋词三百首辞典
Biên soạn: Lâm Thân
Thanh 林申清
Hán ngữ đại từ điển
xuất bản xã, 1999.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật