NHẤT
DẠ THẬP KHỞI
一夜十起
MỘT ĐÊM TRỞ DẬY MƯỜI
LẦN
Xuất
xứ: Nam
triều . Tống . Phạm Việp范晔:
Hậu Hán thư – Đệ Ngũ Luân truyện 后汉
- 第五伦传.
Đầu
thời Đông Hán, có một người họ Đệ Ngũ 第五, tên Luân 伦, tự Bá Ngư 伯鱼. Người này là một vị quan thanh liêm chính trực. Khi ông
làm Thái thú ở Cối Kê 会稽(nay là Thiệu Hưng 绍兴 Triết Giang 浙江), từng đích thân cắt cỏ cho ngựa ăn, người vợ đích thân nấu
cơm pha trà, coi ngó việc trong nhà. Cho nên, danh thanh của ông rất tốt.
Có
người hỏi Đệ Ngũ Luân rằng:
-
Người giống như ông, có thể xem là không
có chút lòng riêng tư nào được chăng?
Đệ
Ngũ Luân khiêm tốn đáp rằng:
-
Có một người bạn đến tôi cầu chức quan, tặng
tôi một con tuấn mã, tôi tuy không nhận, đến nay cũng chưa giới thiệu ông ta đảm
nhiệm chức quan gì, nhưng mỗi khi gặp người tiến cử, lại luôn nghĩ đến người
đó. Còn nữa, khi đứa cháu của tôi bị bệnh nặng, trong một đêm tôi trở dậy mười
lần, đến thăm qua một lượt rồi mới đi nằm, mỗi lần như thế mới ngủ được; khi đứa
con của tôi bị bệnh, tôi cũng như vậy, lần nữa rồi lần nữa đến thăm, nhưng sau khi thăm, trong lòng cũng lo lắng,
suốt đêm không thể ngủ. Như vậy, có thể nói là tôi không hề có lòng riêng tư
sao?
Thành
ngữ này xuất phát từ Hậu Hán thư – Đệ Ngũ
Luân truyện 后汉 - 第五伦传, nguyên văn là:
Hoặc vấn Luân viết: ‘Công hữu tư hồ?’
Đối viết: ‘Tích nhân hữu dữ ngô thiên
lí mã giả, ngô tuy bất thụ, mỗi tam công hữu sở tuyển trạch, tâm bất năng vong,
nhi diệc chung bất dụng dã. Ngô huynh tử thường bệnh, nhất dạ thập vãng, thoái
nhi an tẩm; ngô tử hữu tật, tuy bất tỉnh thị, nhi cánh dạ bất miên. Nhược thị
giả, khởi khả vị vô tư hồ?
或问伦曰: “公有私乎?”
对曰: “昔人有与吾千里马者, 吾虽不受, 每三公有所选择, 心不能忘, 而亦终不用也. 吾兄子常病, 一夜十往, 退而安寝; 吾子有疾, 虽不省视, 而竟夜不眠. 若是者, 岂可谓无私乎?”
(Có
người hỏi Đệ Ngũ Luân rằng: “Ông có lòng riêng tư không?”
Đệ
Ngũ Luân đáp rằng: “Trước đây có người tặng tôi con thiên lí mã, tôi tuy không
nhận, mỗi khi quan trên chọn người, trong lòng tôi không quên người đó, nhưng
cuối cùng vẫn không tuyển dụng. Đứa con của anh tôi thường bệnh nặng, tôi một
đêm trở dậy đến thăm mười lần, lúc lui về mới nằm yên. Con tôi bệnh nhẹ, tôi
tuy không đến thăm, nhưng suốt cả đêm tôi cũng không ngủ được. Như vậy,
há có thể gọi là không có lòng riêng tư sao?)
“Nhất
dạ thập vãng” trong đoạn văn này về sau diễn hoá thành “nhất dạ thập khởi”.
Chú
của người dịch
Khi Đệ Ngũ Luân nói về con của mình, nguyên tác Trung văn ghi là:
Ngã tự kỉ đích nhi tử bệnh liễu đích thời hậu,
ngã diệc đồng dạng nhất thứ hựu nhất thứ địa khứ khán tha, đản thị khán qua hậu,
tâm lí lão thị khiên quải trước, thông dạ bất năng nhập thuỵ.
我自己的儿子病了的时候, 我亦同样一次又一次地去看他, 但是看过后, 心里老是牵挂著, 通夜不能入睡.
Có
khác với Hậu Hán thư:
Ngô tử hữu tật, tuy bất tỉnh thị, nhi cánh dạ
bất miên.
吾子有疾, 虽不省视, 而竟夜不眠
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 25/12/2017
Nguyên tác Trung văn
NHẤT DẠ THẬP KHỞI
一夜十起
MỘT ĐÊM TRỞ DẬY MƯỜI
LẦN
中国成语故事总集
(tập 1)
Chủ biên: Đường Kì 唐麒
Trường Xuân – Thời đại
văn nghệ xuất bản xã, 2004.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật