VÂY NGUỴ CỨU TRIỆU
(kì 4)
齐因起兵, 使田忌, 田婴, 田盼将之, 孙子为师, 以救韩, 直走魏都. 庞涓闻之, 去韩而归. 魏人大发兵, 以太子申为将, 以御齐师. 孙子谓田忌曰: “彼三晋之兵素悍勇而轻齐 (1), 齐号为怯. 善战者因其势而利导之 (2). “兵法”: ‘百里而趣利者蹶上将 (3), 五十里而趣利者军半至 (4)’.”乃使齐军入魏地为十万灶, 明日为五万灶, 又明日为二万灶 (5). 庞涓行三日, 大喜曰: “我固知齐军怯, 入吾地三日, 士卒亡者过半矣! (6)” 乃弃其步军 (7), 与其轻锐倍日并行逐之 (8). 孙子度其行 (9), 暮当至马陵 (10), 马陵道狭而旁多阻隘, 可伏兵, 乃斫大树 (11), 白而书之曰 (12): “庞涓死此树下!” 于是令齐师善射者万弩夹道而伏 (13), 期日暮见火举而俱发 (14). 庞涓果夜到斫木下, 见白书, 以火烛之 (15), 读未毕, 万弩俱发, 魏师大乱相失 (16). 庞涓自知智穷兵败, 乃自刭 (17), 曰: “遂成竖子之名! (18)”
齐因乘胜大破魏师, 虏太子申.
Phiên âm
Tề nhân khởi binh, sử Điền Kị, Điền An, Điền
Phán tướng chi, Tôn Tử vi sư, dĩ cứu Hàn, trực tẩu Nguỵ đô. Bàng Quyên văn chi,
khứ Hàn nhi quy. Nguỵ nhân đại phát binh, dĩ thái tử Thân vi tướng, dĩ ngự Tề
sư. Tôn Tử vị Điền Kị viết: “Bỉ tam Tấn chi binh tố hãn dũng nhi khinh Tề (1),
Tề hiệu vi khiếp. Thiện chiến giả nhân kì thế nhi lợi đạo chi (2).
“Binh pháp”: “Bách lí nhi thú lợi giả quyết Thượng tướng (3), ngũ thập
lí nhi thú lợi giả quân bán chí (4).” Nãi sử Tề quân nhập Nguỵ địa
vi thập vạn táo, minh nhật vi ngũ vạn táo, hựu minh nhật vi nhị vạn táo (5).
Bàng Quyên hành tam nhật, đại hỉ viết: “Ngã cố tri Tề quân khiếp, nhập ngô địa
tam nhật, sĩ tốt vong giả quá bán hĩ (6)!” Nãi khí kì bộ quân (7),
dữ kì khinh nhuệ bội nhật tịnh hành trục chi (8). Tôn Tử đạc kì hành
(9), mộ đương chí Mã Lăng (10), Mã Lăng đạo hiệp nhi bàng
đa trở ải, khả phục binh, nãi chước đại thụ (11), bạch nhi thư chi
viết (12): “Bàng Quyên tử thử thụ hạ!” Vu thị lệnh Tề sư thiện xạ giả
vạn nỗ giáp đạo nhi phục (13), kì nhật mộ kiến hoả cử nhi câu phát (14).
Bàng Quyên quả dạ đáo chước mộc hạ, kiến bạch thư, dĩ hoả chúc chi (15),
độc vị tất, vạn nỗ câu phát, Nguỵ sư đại loạn tương thất (16). Bàng
Quyên tự tri trí cùng binh bại, nãi tự hĩnh (17), viết: “Toại thành
thụ tử chi danh! (18)” Tề nhân thừa thắng đại phá Nguỵ sư, lỗ thái tử
Thân.
Chú thích
1- Tam Tấn chi
binh 三晋之兵: ở đây chỉ binh sĩ của nước Nguỵ. Cuối thời Xuân Thu, 3 nhà Hàn, Triệu,
Nguỵ phân chia nước Tấn, sử gọi là “tam Tấn”.
2- Nhân kì thế
nhi lợi đạo chi 因其势而利导之: ý nói quân Nguỵ vốn coi thường quân Tề, nên không ngại
làm ra vẻ khiếp sợ, thuận ứng theo tư tưởng quân Nguỵ cho rằng quân Tề khiếp sợ
để quân Tề giả vờ khiếp sợ đào vong, mục đích là dụ quân Nguỵ thâm nhập.
3- Thú lợi 趣利: 趣 (thú) thông với chữ 趋
(xu). Ý nghĩa nhanh chóng tranh lợi,
Lợi ở đây chỉ cái lợi tiên cơ lúc hội chiến, tức trước
khi quân địch đến địa điểm hội chiến, giành được sự tiện lợi của thế trận.
Quyết 蹶: bị bẻ gãy, bị hao tổn.
Thượng tướng 上将: tức Thượng tướng
quân. Từ thời Chiến Quốc, Thượng tướng quân là vị thống soái quân sự tối cao.
4- Ngũ thập lí
nhi thú lợi giả quân bán chí五十里而趣利者军半至:
Ý đoạn
này nói, quân hai bên tranh lợi, cự li càng dài, tốc độ càng nhanh, thì khó giữ
được sự hài hoà nhất trí của động tác trong lúc hành quân, người rớt khỏi đội ngũ càng đông.
5- Hựu minh nhật
vi nhị vạn táo又明日为二万灶: để mê hoặc quân Nguỵ, Tôn Tẫn cố ý bắt chước theo
cách tranh đoạt trong quân, cứ theo ngày
giảm bớt số bếp dùng để nấu cơm, khiên quân Nguỵ cho là quân Tề một số lượng lớn
bị rớt khỏi đội ngũ.
6- Quá bán 过半: Tôn Tẫn giảm số
bếp từ 10 vạn xuống 5 vạn rồi còn 2 vạn, xem như binh lực chỉ còn chưa đủ một
phần ba, cho nên nói “quá bán”.
7- Khí kì bộ
quân 弃其步军: thời Chiến Quốc, hai bên tác chiến thường dùng xa binh, kị binh và bộ
binh hợp đồng tác chiến, xa binh và kị binh tốc độ tương đối nhanh, còn bộ binh
tương đối chậm. Bàng Quyên cho rằng, trước
mắt quân Tề đã đến địa điểm giao chiến, binh lực không đủ một phần ba, cho nên
dám bỏ bộ binh có tốc độ hành quân tương đối chậm mà giao tranh với quân Tề.
8- Khinh nhuệ 轻锐: khinh binh nhuệ
tốt, chỉ binh sĩ có tốc độ nhanh, thể lực tốt.
Bội nhật tịnh hành 倍日并行: lộ trình đi
hai ngày chỉ đi trong 1 ngày.
9- Đạc 度: tính toán.
10- Mã Lăng 马陵: đất Tề, nay tại
phía đông nam Đại Danh 大名 Hà Bắc 河北. Có thuyết cho là tại tây nam huyện Sằn 莘 Sơn Đông 山东.
11- Chước 斫: dùng rìu tước vỏ
cây.
12- Bạch 白: tước vỏ cây làm
cho phần trắng lộ ra.
Thư 书: viết
13- Nỗ 弩: một loại cung
dùng lẫy khống chế để bắn.
14- Kì 期: hẹn
15- Dĩ hoả chúc
chi以火烛之: lấy lửa rọi soi chữ viết trên cây.
Chúc 烛: chiếu, chiếu sáng.
16- Tương thất 相失: đội hình bị rối
loạn, binh sĩ mất vị trí tương đối của mình, hai người không thể cùng nhau đối ứng.
Thời cổ lúc hành quân, đóng trại, tác chiến đều có đội hình cố định, mất đội
hình thì không thể tác chiến.
17- Nãi tự hĩnh乃自刭: bèn tự sát.
18- Thụ tử 竖子: lời mắng người
khác, giống như nói “tiểu tử”
Dịch nghĩa
Nước Tề
lúc bấy giờ mới phát binh, giao Điền Kị, Điền Anh, Điền Phán làm Tướng quân,
Tôn Tẫn làm quân sư, đi cứu viện nước Hàn. Họ vẫn dùng cách cũ, tiến thẳng đến
đô thành nước Nguỵ. Bàng Quyên sau khi nghe tin, vội bỏ nước Hàn, không đánh nữa,
đem binh về cứu quốc đô. Nước Nguỵ tập trung toàn bộ binh lực, giao thái tử
Thân làm Tướng quân, chống lại quân đội nước Tề. Tôn Tẫn nói với Điền Kị rằng:
- Binh sĩ Nguỵ, Triệu, Hàn trước giờ vẫn hung
hãn dũng mãnh, xem thường binh sĩ nước Tề, chẳng qua thanh danh của binh sĩ nước
Tề quả thực cũng chưa tốt. Tướng quân giỏi chỉ huy tác chiến tất cần phải nhân
thế mà tranh đoạt, phát huy chỗ mạnh tránh chỗ yếu. Trong “Tôn Tử binh pháp” có
nói: ‘Ngoài 100 dặm mà bôn tập sẽ tổn thất Thượng tướng quân, ngoài 50 dặm mà
bôn tập thì chỉ có một nửa quân số có thể đến được.’
Thế là,
sau khi đã hạ lệnh cho quân Tề tiến vào đất Nguỵ, ngày đầu tiên cho làm 10 vạn
cái bếp, ngày hôm sau giảm còn 5 vạn, hôm sau nữa giảm còn 2 vạn. Bàng Quyên dẫn
quân truy kích quân Tề 3 ngày, thấy tình hình như thế, cười lớn và nói rằng:
- Ta sớm đã biết quân Tề có tính khiếp sợ, thời
gian 3 ngày tiến vào nước ta, binh sĩ đã đào tẩu hơn một nửa.
Thế là
liền bỏ bộ binh, đích thân dẫn khinh binh tinh nhuệ ngày đêm kiêm trình truy
kích quân Tề. Tôn Tẫn tính toán quân Nguỵ lúc chiều tối sẽ đến Mã Lăng. Đường ở
Mã Lăng chật hẹp và hiểm trở, có thể mai phục, Tôn Tẫn liền sai người đi cạo lớp
vỏ của một cây lớn, viết lên khoảng trắng mấy chữ lớn: “Bàng Quyên chết dưới
cây này.” Lại từ trong quân chọn ra một vạn tiễn thủ ưu tú cho mai phục ven đường,
hẹn sau khi trời tối nhìn thấy lửa sáng thì đồng loạt bắn tên. Quả nhiên, Bàng
Quyên trong đêm đến dưới cây đó, nhìn thấy ở chỗ trăng trắng có chữ mờ mờ, liền
ra lệnh nâng đuốc rọi xem, đọc chưa dứt đã thấy hai bên tên bắn như mưa, quân
Nguỵ đại loạn, không còn hàng ngũ. Bàng Quyên tự biết thế lớn đã mất bèn rút kiếm
tự vẫn, trước lúc chết than rằng:
- Rốt cuộc ta đã để cho tên tiểu tử Tôn Tẫn
thành danh!
Quân Tề
thừa thế đại phá quân Nguỵ, bắt được đại tướng nước Nguỵ là thái tử Thân.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn
20/10/2017
Nguồn
TƯ TRỊ THÔNG GIÁM
资治通鉴
Bắc Tống . Tư Mã Quang 司马光
Chủ biên: Nhậm Tư Vũ 任思武
Bắc Kinh . Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật