TẠI SAO NGƯỜI XƯA GỌI TIỀN LÀ
“KHỔNG PHƯƠNG HUYNH”
“Khổng
phương huynh” 孔方兄 thời cổ chỉ tiền tệ, do bởi tiến đồng đa phần là
ngoài tròn trong vuông, cho nên cũng được gọi là “khổng phương” 孔方.
Lai lịch
của từ “khổng phương huynh” có liên quân đến mấy điển cố lịch sử. Những năm
Nguyên Khang 元康 đời Huệ Đế 惠帝 nhà Tây Tấn, chính
trị hủ bại, tham ô hối lộ thịnh hành, đạt quan quý nhân đa số đều “nghiện tiền”,
phong khí xã hội cũng “duy tiền thị cầu” 唯钱是求 (chỉ biết có kiếm tiền). Trong Tiền
thần luận 钱神论, Lỗ Bao 鲁褒 đã châm biếm phong khí xã hội dung tục lúc bấy giờ:
Tiền chi vi vật, vô đức nhi tôn, vô thế nhi
nhiệt, bài kim môn, nhi nhập tử thát, nguy khả sử an, tử khả sử hoạt, quý khả sử
tiện, sinh khả sử sát, thị cố phẫn tranh phi tiền bất thắng, u trệ phi tiền bất
bạt, oán cừu phi tiền bất giải, lệnh văn phi tiền bất phát ..... Phàm kim chi
nhân, duy tiền nhi dĩ! (1)
钱之为物, 无德而尊, 无势而热, 排金门, 而入紫闼, 危可使安, 死可使活, 贵可使贱, 生可使杀, 是故忿争非钱不胜, 幽滞非钱不拔, 怨仇非钱不解, 令闻非钱不发 ..... 凡今之人, 唯钱而已! (1)
(Tiền là
thứ, không có địa vị mà lại được mọi người tôn quý, không có thế lực mà lại mạnh
mẽ. Nó có thể mở cửa nhà giàu, vào cửa nhà quan. Nếu có tiền, nguy có thể hóa
thành bình an; khiến người chết có thể sống lại. Nếu không có tiền, thì giàu có
cũng biến thành thấp hèn; sống cũng có thể bị giết chết. Cho nên, tranh với người
mà phải tới cửa quan, không có tiền thì không thể thắng; những kẻ thế cô lực bạc,
không có tiền cũng không được cất nhắc; oán thù căm phẫn, không có tiền cũng
không thể hóa giải; sai khiến hỏi han nói cười trò chuyện, không có tiền cũng
không thể thực hiện .... Người thời nay, chỉ biết có tiền mà thôi!)
Tiền vô nhĩ, khả sử quỷ (2)
钱无耳, 可使鬼 (2)
(Tiền không có tai mà có thể sai khiến được quỷ)
Tiền vi thế thần bảo, thân chi như huynh, tự
viết “khổng phương”. Thất chi tắc bần nhược, đắc chi tắc phú xương. (3)
钱为世神宝, 亲之如兄, 字曰孔方. 失之则贫弱, 得之则富昌. (3)
(Tiền là
thần bảo trên đời, thân thiết như huynh, tên tự là “khổng phương”. Mất nó thì
nghèo khổ yếu đuối, được nó thì giàu mạnh.)
Trong
đó, hình tượng “thân chi như huynh, tự viết “Khổng phương” đã khắc họa sự theo
đuổi của con người đối với kim tiền. Sở dĩ là “huynh”, duyên do từ chỗ “thân ái
như huynh” (4), xem nó như là “thần”, cho nên không gọi là “đệ” hoặc
“thúc”.
Từ “Khổng
phương huynh” được thấy sớm nhất trong câu thơ của đại thi nhân Hoàng Đình Kiên
黄庭坚 đời Tống:
Quản thành tử vô thực nhục tướng
Khổng phương huynh hữu tuyệt giao thư (5)
管城子无食肉相
孔方兄有绝交书
(Quản thành tử không có tướng thực nhục
Khổng phương huynh có thư tuyệt giao)
Đương
thời Hoàng Đình Kiên bị triều đình biếm chức, thân hữu bắt đầu xa lánh ông. Đau
buồn, Hoàng Đình Kiên viết ra bài thơ có hai câu này, ý là: bút (quản thành tử)
không có tướng dung tục (thực nhục); tiền lại xa lánh ta (dẫn đến nghĩa bạn bè
thân hữu chê nghèo thích giàu). Do bởi bài thơ được ưu truyền rộng rãi, “khổng
phương huynh” cũng thành từ dùng để thay cho “tiền”
Chú của người
dịch
1- Theo http://www.pjcar.cn/b/22299html
, đoạn này trong Tiền thần luận là:
无位而尊, 无势而热, 排金门, 入紫闼; 钱之所在, 危可使安, 死可使活; 钱之所去, 贵可使贱, 生可使杀. 是故忿争辩讼,非钱不胜, 孤弱幽滞, 非钱不拔, 怨仇嫌恨,非钱不解, 令问笑谈,非钱不发 ..... 凡今之人, 唯钱而已!
Vô vị nhi tôn, vô thế nhi nhiệt, bài kim môn, nhập tử thát; tiền chi sở tại, nguy khả sử an, tử khả sử hoạt; Tiền chi sở khứ,
quý khả sử tiện, sinh khả sử sát, thị cố
phẫn tranh biện tụng, phi tiền bất thắng, cô nhược u trệ phi tiền bất bạt, oán
cừu hiềm hận, phi tiền bất giải, lệnh vấn
tiếu đàm phi tiền bất phát .....
Phàm kim chi nhân, duy tiền nhi
dĩ!
(Tiền là thứ, không có địa vị
mà lại được mọi người tôn quý, không có thế lực mà lại mạnh mẽ. Nó có thể mở cửa
nhà giàu, vào cửa nhà quan. Nếu có tiền, nguy có thể hóa thành bình an; khiến
người chết có thể sống lại. Nếu không có tiền, thì giàu có cũng biến thành thấp
hèn; sống cũng có thể bị giết chết. Cho nên, tranh với người mà bị tới cửa
quan, không có tiền thì không thể thắng; những kẻ thế cô lực bạc, không có tiền
cũng không được cất nhắc; oán thù căm phẫn, không có tiền cũng không thể hóa giải;
sai khiến hỏi han nói cười trò chuyện, không có tiền cũng không thể thực hiện
.... Người thời nay, chỉ biết có tiền mà thôi!)
Ở trên, tôi dịch theo đoạn chú
thích.
2- Theo tài liệu trên, câu này là:
“Tiền vô nhĩ, khả ám sử” hựu viết: “Hữu
tiền khả sử quỷ”
“钱无耳, 可暗使” 又曰: “有钱可使鬼”
“Tiền không có tai, nhưng có
thể ngầm sai khiến” và “Có tiền có thể sai khiến được quỷ.”
3- Cũng theo tài liệu trên, câu này là:
为世神宝, 亲爱如兄, 字曰孔方. 失之则贫弱, 得之则富强.
Vi thế thần bảo, thân ái như huynh, tự viết khổng phương. Thất chi tắc
bần nhược, đắc chi tắc phú cường.
4- Sở dĩ là “huynh”,
trong nguyên tác ghi duyên do là:
“khả sử quỷ” chi cố.
“可使鬼” 之故
Có lẽ
nhầm, vì ngay trong đoạn trên có câu “thân ái như huynh”, không phải là do”khả
sử quỷ” (có thể sai khiến được quỷ).
5- Hai câu này trong bài Hí trình Khổng Nghị Phụ 戏呈孔毅父.
Quản
thành tử 管城子: tức bút lông.
Thực nhục
tướng 食肉相: tướng được phong hầu.
Theo Hán thư – Ban Siêu truyện 汉书 - 班超传: một ông thầy
tướng nói từng nói với Ban Siêu: “có hàm én cổ cọp, bay mà được ăn thịt, ấy là
tướng được phong hầu.” Về sau, Ban Siêu quăng bút theo nghiệp binh, lập công
nơi Tây vực, quả nhiên được phong hầu.
Tuyệt giao thư 绝交书: Kê Khang 嵇康 có bài Dữ Sơn Cự Nguyên tuyệt giao thư 与山巨源绝交书.
Ở đây mượn chỉ không có duyên
với tiền tài.
Ý của 2 câu thơ là:
Người dựa vào bút viết văn
sinh sống, không có số được phong hầu bái tướng.
Còn vị khổng phương huynh kia
từ lâu đã hướng đến ta đưa bức thư tuyệt giao.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 01/10/2017
Nguyên tác Trung văn
Trong quyển
THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN
趣味文化知识大全
Thanh Thạch 青石 biên
soạn
Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã,
2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật