TỤC VẤN DANH VÀ HỢP CANH TRONG HÔN LỄ
Vấn
danh 问名 là nhà trai sau khi cầu hôn nhờ người mai mối hỏi họ
tên và ngày tháng năm sinh của cô gái, chuẩn bị cho nghi thức hợp hôn., là lễ
thứ hai trong “lục lễ” ở hôn nhân cổ đại.
Theo Nghi lễ - Sĩ hôn lễ 仪礼 - 士婚礼, nghi thức vấn danh thời cổ là:
Tân chấp nhạn, thỉnh vấn danh
宾执雁, 请问名
(Khách mang chim nhạn đến làm lễ vật, hỏi tên cô gái)
Trong
hôn lễ thời cổ, vấn danh là một nghi thức vô cùng quan trọng. Trong Thi kinh – Vệ phong – Manh 诗经 - 卫风 - 氓 có câu:
Nhĩ bốc nhĩ phệ
Thể vô cữu ngôn
尔卜尔筮
体无咎言
Ý nói anh đã dùng mai rùa và cỏ thi để bói, không có
điềm nào là không cát lợi. Phản ánh “vấn danh lễ” mà nam nữ vào thời cổ trước
khi đính hôn phải làm, đồng thời cũng bói ngày tháng năm sinh của hai người, nếu
như là điềm hung thì không đính hôn.
Tiến hành bói ngày tháng năm
sinh của nam nữ, dân gian gọi là “hợp bát tự” 合八字
hoặc “hợp canh” 合庚. Trong mắt người xưa, hợp bát tự vô cùng quan trọng,
nó không những ảnh hưởng đến hạnh phúc của vợ chồng; mà còn ảnh hưởng đến hạnh
phúc của cả gia đình. Theo truyền thuyết, nếu bát tự của cô gái “khắc phu”, sau
khi kết hôn, người chồng sẽ khó mà tránh được cái chết; ngược lại, nếu bát tự của
người nam “khắc thê”, sau khi kết hôn, người vợ khó mà tránh
Khỏi cái chết. Bát tự của cô gái nếu phạm vào “sao chổi”,
sau khi kết hôn sẽ khiến trong nhà không ngừng phát sinh lộn xộn. Làm sao có thể
biết bát tự của hai người hợp hay không hợp? Thời cổ có vu sư chiêm bốc, sau
này có thầy xem tướng số chiêm bốc.
Tập tục
vấn danh ở Bắc Kinh thời cận đại, chủ yếu xem năm sinh và cầm tinh của nam nữ
có hợp hay không. Nếu không phải là ngựa với trâu, dê với chuột, rắn với hổ, thỏ
với rồng, gà với chó, heo với khỉ cùng với nhau thì là hợp.
Tại
vùng Triết Giang, trước đây thịnh hành tục tảo hôn, nam nữ lúc còn nhỏ đã được
cha mẹ hai bên đính hôn. Trước khi đính hôn, hai bên phải hỏi rõ năm sinh và cầm
tinh của nam nữ, sau đó nhờ thầy tướng số xem qua có “hợp cầm tinh” hay không.
Nếu thầy tướng số nói phạm vào đại kị thì cuộc nhân duyên đó coi như huỷ. Gọi
là phạm đại kị, đó là chỉ: ngựa với trâu, dê với chuột, rắn với hổ, thỏ với rồng,
gà với chó, heo với khỉ. Chỉ có mệnh tướng tương hợp mới có thể đính hôn.
Tập tục
“hợp canh” 合庚 vùng Tuyền Châu 泉州
Phúc Kiến 福建 có nét đặc sắc. Người làm mai trước tiên đưa niên
canh của cô gái, đưa cho nhà trai, tục gọi là “sinh nhật” 生日. Nhà trai tiếp nhận, để tờ niên canh đó dưới bát
hương ở trang thờ Bồ Tát hoặc dưới bát hương bàn thờ tổ tiên, giữ 3 ngày 3 đêm
trong nhà được bình an, cầm thú không xảy ra việc, đồ đạc không vỡ, gọi đó là
“tam nhật viên” 三日圆. Sau khi qua được cửa ải này mới tiến một bước điều
tra môn phong nữ đức, sau khi đợi nhà trai đồng ý mới viết niên canh của người
nam, tục xưng là “thế hệ” 世系, giao cho người làm
mai đưa đến nhà gái. Nhà gái cũng phải đợi “tam nhật viên” sau đó mới tiến
hành điều tra thế hệ nhân phẩm của nhà trai. Nếu “hợp canh” thì cơ bản coi như
đã hoàn thành. Cũng có một số người ngoài tam nhật viên ra còn đem niên canh của
nam nữ giao cho thầy tướng số “hợp canh”. Sau khi hợp canh, nhà trai mời tôn
thân nữ tính trực hệ đến nhà gái xem qua dung mạo của cô gái, hoặc bàn về nhiều
phương diện, để tìm hiểu cô gái có nói lắp hay không, có câm điếc hay không. Thậm
chí có người còn xem qua tay của cô gái, nghiệm xem chỉ tay trong lòng bàn tay
đứt đoạn hay không. Tập tục này gọi là “thô khán” 粗看.
Nếu thô khán không hợp ý, “hợp canh” sẽ huỷ. Tập tục “hợp canh” trong hôn nhân ở
Đài Loan cũng tương tự như thế.
Thời
trước, hôn tục vùng Ninh Hương 宁乡 (Hồ Nam 湖南 – ND) rất phức tạp, “hợp bát tự” thông qua người làm
mai truyền đạt. Niên canh nhà trai viết lên giấy đỏ, niên canh nhà gái viết lên
giấy xanh. Người làm mai chọn “ngày Hoàng đạo” phát “hồng canh” 红庚, hai bên sau khi nhận niên canh, đặt nơi khám thờ thần,
đêm khuya để ý lắng nghe xem có phát ra âm thanh nào không; ban ngày cả nhà phải
cẩn thận, không được làm tổn hại bất kì đồ đạc nào. 3 ngày 3 đêm như thế, nơi
khám thờ không có âm thanh, đồ đạc trong nhà không bị hư tổn thì đó là điềm tốt,
nếu không, đành phải thối hồi niên canh. Nếu điềm cát lợi sẽ mời thầy tướng số
“hợp hồng canh”. Thầy tướng số sẽ đem ngày tháng năm sinh của nam nữ dựa theo
thiên can địa chi “nạp nhân” 纳姻 cùng “12 con giáp”
“sắp tứ trụ”. Dựa theo “ngũ hành” 五行 tương sinh tương khắc
mà tính toán, nếu như tương khắc gọi là “bát tự bất hợp” 八字不合, nếu tương sinh tương bổ thì gọi là “hợp đắc bát tự” 合得八字, xưng là “Trời sinh một đôi, đất sinh một cặp. Bạc đầu
đến già, con cháu đầy nhà” . Thời kì “hợp bát tự” nếu một bên chưa thối hồi
canh thư, thì bên còn lại không được lựa chọn đối tượng khác.
Về tập
tục “hợp bát tự”, các nơi không thống nhất, chẳng qua luôn tỉ mỉ. Đơn giản như
việc viết kị huý ở canh thư. Thời trước, nhiều nơi khi viết canh thư , trên bàn
phải đặt một cặp đèn, ở giữa đặt bút mực và nghiên. Bút phải 2 cây, mực phải 2
thỏi (dùng chỉ đỏ cột lại với nhau). Khi mài mực, 2 thỏi mực phải đồng thời mài
một lúc, khi viết canh thư nhà trai dùng một cây bút mới, viết canh thư nhà gái
dùng một cây bút mới khác. Bút mực phải thành cặp, ý nghĩa là “song hỉ lâm
môn”, “hỉ sự thành song”, biểu thị cát tường. Sinh canh của nam nữ trên canh thư,
số chữ phải chẵn. Tục cũ rất chú trọng việc:
Vong nhân bản vị đan, sinh canh bát tự
song
亡人版位单, 生庚八字双
(Bài vị người mất thì lẻ, sinh canh bát tự phải chẵn)
Nếu số chữ niên canh là lẻ thì bị cho là không tốt. Tức
khi gặp phải số lẻ, cần phải động não làm sao cho thành chẵn. Nhân đó, người viết
canh thư thường lo lắng không yên.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 02/9/2017
Nguồn
BÁT TỰ HÔN NHÂN HỌC
八字婚姻学
Tác giả: Vương Trạch Thụ 王泽树
Thanh Hải nhân dân xuất bản xã, 2005.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật