PHỦ QUAN THỜI CỔ SAO LẠI GỌI LÀ NHA MÔN
Do bởi
mãnh thú có ranh nanh, người ta bèn dùng răng nanh tượng trưng cho vũ lực.
Trong Thi kinh – Tiểu nhã – Kì phủ 诗经 - 小雅 - 祈父 có câu:
Kì phủ
Dư vương chi trảo nha
祈父
予王之爪牙
(Này quan Kì phủ!
Chúng tôi là quân dũng mãnh của vua)
(Bản dịch của Tạ Quang Phát "Kinh thi", tập 2)
Trong Hậu Hán thư – Tập giải 后汉书 - 集解 có ghi:
Vũ Đế chinh tứ di, hữu tiền hậu tả hữu
tướng quân, vi quốc trảo nha.
武帝征四夷, 有前后左右将军, 为国爪牙.
(Vũ Đế chinh phạt tứ di, có tướng
quân tiền hậu tả hữu, là nanh vuốt của đất nước)
Từ đó có thể thấy, quân vương
thời cổ rất coi trọng tướng lĩnh có năng lực hơn người, xem họ là cánh tay trái
cánh tay phải, đồng thời để họ nắm giữ quân sự quốc gia và là võ vệ. Những tướng
lĩnh này chính là nanh vuốt của quốc quân, giống như răng nanh của mãnh thú.
Để thể hiện rõ địa vị của
mình, quân vương thường đem nanh vuốt của mãnh thú đặt tại nơi làm việc hoặc chỗ
chỉ huy. Về sau nhân vì hơi phiền phức, liền dùng gỗ có khắc hoạ khoa trương
răng thú đặt hai bên doanh môn phía ngoài quân doanh môn để trang sức, đó chính
là “nha môn” 牙门. Có thể thấy, thời cổ “nha môn” là từ dùng trong quân
sự, là biệt xưng của môn doanh quân lữ.
Còn như牙门 biến thành 衙门 từ lúc nào, đồng thời
lại là từ chỉ phủ quan thì không có ghi chép rõ ràng. Nhưng theo các nhà sử học
nghiên cứu, muộn nhất là xuất hiện vào đời Đường. Theo Phong Diễn 丰演 đời Đường trong Phong
thị văn kiến kỉ 丰氏闻见纪:
Cận tục thượng võ, thị dĩ thông hô công phủ vi công nha, phủ môn vi nha
môn, tự sảo ngoa biến chuyển nhi vi nha dã.
近俗尚武, 是以通呼公府为公牙, 府门为牙门, 字稍讹变转而为衙也.
(Tập tục gần đây thông gọi
công phủ là “công nha”, phủ môn là “nha môn”, chữ 牙biến
chuyển sai thành chữ 衙)
Chu Mật 周密 đời Tống trong Tề
đông dã ngữ 齐东野语 cũng có nói:
Cận thế trọng võ, thông vị Thứ sử trị sở viết nha ..... lí ngữ ngộ chuyển
vi nha.
近世重武, 通谓剌史治所曰牙 ..... 俚语误转为衙.
(Gần đây trọng võ, thông gọi
chỗ làm việc của Thứ sử là 牙 ..... dân gian nhầm
chuyển là 衙.)
Từ “nha môn” 衙门 từ triều Đường trở về sau càng lưu hành. Đến sau thời
Bắc Tống, người ta dường như chỉ biết衙门, mà không biết 牙门. Lấy 衙门 làm cơ sở đã sản
sinh ra một loạt những xưng vị liên quan đến chức nghiệp và vật phẩm, như “nha
dịch” 衙役, “nha nội” 衙内, “nha bài” 衙牌 ... Đến cận đại và đương đại, “nha môn” 衙门
và “nha môn tác phong” 衙门作风 lại dần diễn biến
thành từ dùng để thay cho chủ nghĩa quan liêu.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 11/8/2017
Nguyên tác Trung văn
Trong quyển
THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN
趣味文化知识大全
Thanh Thạch 青石 biên
soạn
Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã,
2013
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật